Bản án về tranh chấp ly hôn số 158/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 158/2023/HNGĐ-ST NGÀY 13/06/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 13 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 256/2023/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2023 về việc “tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 181/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Huỳnh Mộng K, sinh năm 1995. Địa chỉ: Ấp T, xã Tân T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Bị đơn: Anh Lê Quang X, sinh năm 1992. Địa chỉ: Ấp M, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Huỳnh Mộng K trình bày:

- Về hôn nhân: Chị K và anh X chung sống với nhau năm 2019, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Quá trình chung sống do bất đồng quan điểm và không còn tiếng nói chung, mâu thuẫn được hai bên thân tộc hòa giải nhưng tình trạng tiến triển không tốt, anh chị đã không còn hòa hợp 02 năm. Nay chị K xác định không thể tiếp tục chung sống cùng với anh X nên yêu cầu xin ly hôn với anh X.

- Về con chung: Có 01 con chung là Lê Huỳnh Khôi V, sinh ngày 07/4/2020. Khi ly hôn chị K yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị K xác định không có.

Bị đơn anh Lê Quang X trình bày:

- Về hôn nhân: Anh thống nhất với chị K về thời gian chung sống, có đăng ký kết hôn và nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh chị, nay chị K xin ly hôn, anh xin đoàn tụ với lý do muốn có gia đình trọn vẹn.

- Về con chung: Có 01 con chung là Lê Huỳnh Khôi V, sinh ngày 07/4/2020. Trường hợp Tòa án cho ly hôn anh yêu cầu được nuôi con chung, việc cấp dưỡng không đặt ra.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hôn nhân: Chị K và anh X chung sống với nhau năm 2019, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận là vợ chồng. Theo chị K xác định, quá trình chung sống do bất đồng quan điểm và không còn tiếng nói chung, nguyên nhân chủ yếu là về kinh tế, anh chị đã không còn hòa hợp 02 năm, từ nguyên nhân trên nên chị K yêu cầu xin ly hôn với anh X. Đối với anh X thống nhất nguyên nhân mâu thuẫn như chị K trình bày nhưng không đồng ý ly hôn.

Xét thấy việc mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân giữa chị K và anh X là có xảy ra trên thực tế, được các đương sự thừa nhận, anh X xác định khi anh biết chị K có yêu cầu ly hôn, anh muốn hàn gắn nhưng chị K không hợp tác nên không hàn gắn được đến nay, đồng thời hiện nay anh tập trung làm kinh tế, không có nhiều thời gian quan tâm đến gia đình, chị K và anh X cũng xác định hiện nay anh chị đang ở cùng nhà trọ để lo cho con nhưng không sinh hoạt cùng nhau.

Tại phiên tòa anh X vẫn xin đoàn tụ nhưng anh không đưa ra được phương thức để hòa giải cho thấy anh không có nguyện vọng và quyết tâm để tìm cách hàn gắn tình cảm vợ chồng, tại phiên tòa chị K vẫn cương quyết xin ly hôn. Từ những lý do trên, xét thấy mâu thuẫn của anh chị đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình cho chị K được ly hôn với anh X là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Về con chung: Chị K và anh X đều có nguyện vọng được nuôi con chung, yêu cầu này là phù hợp với quy định của pháp luật được Hội đồng xét xử ghi nhận, tuy nhiên anh chị chỉ có 01 người con chung nên việc xem xét giao con cho cha hoặc mẹ phải căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, tránh xáo trộn cuộc sống ổn định của cháu, đảm bảo phát triển về thể chất và tinh thần.

Anh X cho rằng, tuy hiện nay anh có khó khăn về kinh tế nhưng vẫn đảm bảo các nhu cầu cơ bản của con và chăm sóc được cho con nếu giao con cho anh, Hội đồng xét xử xét thấy: Tại phiên tòa anh X xác định thực tế chị K là người thường xuyên trực tiếp chăm sóc con và hiện nay cháu cũng mến mẹ nhiều, do bận đi làm nên ít chăm sóc hơn và hàng ngày khi chị K bận thì mới giao cho anh chăm sóc cháu.

Xét cháu V sinh ngày 07/4/2020 (hơn 38 tháng tuổi), chị K đã trực tiếp chăm sóc từ đó đến nay và hiện cháu đang phát triển bình thường. Do đó để tiếp tục ổn định cuộc sống và đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho con chung, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình giao cháu V cho chị K tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét; trường hợp có phát sinh tranh chấp về vấn đề này sẽ được xem xét, giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự xác định không có nên không đặt ra xem xét, trường hợp có phát sinh tranh chấp về các vấn đề này sẽ được xem xét, giải quyết bằng vụ án khác.

[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Theo khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị K phải chịu 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Huỳnh Mộng K được ly hôn với anh Lê Quang X.

2. Về con chung: Giao Lê Huỳnh Khôi V, sinh ngày 07/4/2020 cho chị Huỳnh Mộng K tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, việc cấp dưỡng nuôi con không đặt ra.

Anh Lê Quang X có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Huỳnh Mộng K phải chịu 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0014169 ngày 24/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi, chị K đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 158/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:158/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về