Bản án về tranh chấp ly hôn số 11/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 11/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 21 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 336/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 11 năm 2021 về việc "Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 336/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/02/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 336/ QĐST-HNGĐ ngày 30/3/2022 giữa:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc D, sinh năm: 1973;

Địa chỉ: K364/24 đường L, phường C, quận K, thành phố Đà Nẵng. (Có mặt)

- Bị đơn: Bà Ngô Thanh Phương T, sinh năm: 1983;

Địa chỉ: K358/5 đường L, phường C, quận K, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện gửi đến Tòa án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn – ông Nguyễn Ngọc D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông D kết hôn với bà Ngô Thanh Phương T vào năm 2004 có đăng ký kết hôn tại UBND phường C, quận K, thành phố Đà Nẵng, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tính và quan điểm sống không hợp nhau, vợ chồng không có sự tôn trọng lẫn nhau nên thường xuyên xảy ra to tiếng, cãi vả. Nay ông D nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng nên ông D yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà T.

- Về con chung: Ông D xác định 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Bảo T1, sinh ngày 18/10/2004.

Ly hôn, ông D có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung là T1. Ông D không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Ông D xác định không có.

* Bà Ngô Thanh Phương T không có lời khai trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm: Việc Tòa án nhân dân quận Thanh Khê thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền; việc tuân theo pháp luật tố tụng đã xác định Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng trong quá trình tham gia giải quyết vụ án tại Tòa án. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Bị đơn vẫn vắng mặt lần hai đã không thực hiện đúng các quy định tại Điều 70 và Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; xử cho ông Nguyễn Ngọc D được ly hôn với bà Ngô Thanh Phương T. Giao con chung Nguyễn Ngọc Bảo T1, sinh ngày 18/10/2004 cho ông D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, bà T không cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không có nên không đề cập giải quyết. Án phí HNGĐ-ST ông Nguyễn Ngọc D phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê phát biểu về việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và quan điểm giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

*Về thủ tục tố tụng:

[1] Đây là vụ án hôn nhân gia đình tranh chấp về “Ly hôn” quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn bà Ngô Thanh Phương T có địa chỉ cư trú tại K358/5 đường L, phường C, quận K, thành phố Đà Nẵng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê theo khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, Toà án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với bị đơn bà Ngô Thanh Phương T nhưng bà T vẫn vắng mặt không có lý do, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.

*Về nội dung vụ án:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Ngọc D và bà Ngô Thanh Phương T đã tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 09 tháng 7 năm 2004 tại Ủy ban nhân dân phường C, quận K, thành phố Đà Nẵng. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa ông D và bà T là hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Trong quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, ông D xác định tình cảm vợ chồng không còn và xin ly hôn với bà T. Ông D cho rằng trong quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, cách suy nghĩ nên vợ chồng thường xuyên cãi vã dẫn đến đến cuộc sống không hạnh phúc.

Hội đồng xét xử xét yêu cầu của đương sự thì thấy: Mối quan hệ hôn nhân chỉ thực sự tồn tại khi cả hai vợ chồng cùng yêu thương, cùng nhau xây đắp gia đình, cùng nhau có trách nhiệm, chăm sóc cũng như tạo mọi điều kiện cho nhau trong cuộc sống. Trong quá trình chung sống, ông D và bà T có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, không có sự quan tâm cần thiết. Mặc dù kết quả xác minh tại địa phương không xác định được ông bà có mâu thuẫn hay không, tuy nhiên, trong quá trình giải quyết, Tòa án đã tổ chức hòa giải tạo điều kiện để vợ chồng ông bà trở về đoàn tụ, nhưng đều vắng mặt, điều này chứng tỏ bà T không có thiện chí đoàn tụ gia đình. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn vẫn kiên quyết yêu cầu Tòa án cho ly hôn với bị đơn. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn theo quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2] Về quan hệ con chung: Ông Nguyễn Ngọc D xác định trong quá trình chung sống ông bà có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Bảo T1, sinh ngày 18/10/2004.

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết, ông D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, ông D không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu nuôi con chung của ông D thì thấy: Cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con cái. Song việc giao con cho ai nuôi cần xem xét mọi mặt và quyền lợi của con để không ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của con. Xét thấy, sau khi kết hôn đến nay, ông D bà T và con chung đều sinh sống tại địa chỉ K364/24 đường L, phường C, quận K, thành phố Đà Nẵng, việc sinh hoạt đã thành thói quen, việc thay đổi môi trường sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của cháu. Đồng thời, nguyện vọng của cháu xin được ở với ba. Mặt khác, Tòa án đã nhiều lần triệu tập để ghi nhận ý kiến của bà T nhưng bà T đều vắng mặt, điều này chứng tỏ bà T không có thiện chí nên việc giao con chung cho ông D trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Ông D không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện, do đó, Hội đồng xét xử không xem xét gải quyết.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Ông D xác định không có tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này. Trường hợp sau này có tranh chấp thì khởi kiện bằng vụ án dân sự khác để giải quyết.

[4] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nguyên đơn phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc D đối với bà Ngô Thanh Phương T về việc "Ly hôn ".

Tuyên xử:

1. Cho ông Nguyễn Ngọc D được ly hôn bà Ngô Thanh Phương T.

- Về con chung: Ông Nguyễn Ngọc D xác định ông và bà Ngô Thanh Phương T có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Bảo T1, sinh ngày 18/10/2004.

Giao con chung Nguyễn Ngọc Bảo T1 cho ông D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Bà Ngô Thanh Phương T không cấp dưỡng nuôi con.

Các đương sự có mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi vì lợi ích con chung, các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Ngọc D xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này.

2. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) ông Nguyễn Ngọc D phải chịu được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo biên lai thu số 0002322 ngày 04 tháng 11 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Ông D đã nộp đủ tiền án phí.

3. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (21/4/2022). Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 11/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về