Bản án về tranh chấp ly hôn số 106/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 106/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 321/2021/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp hôn nhân gia đình “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 201/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim T – sinh năm 1977; Nơi cư trú: số 02 tổ 4 ấp LH, xã LG, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Sơn N– sinh năm 1978; Nơi cư trú: ấp LT2, xã LG, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim T trình bày: chị và anh N do quen biết và tiến tới hôn nhân vào năm 2000, không tổ chức lễ cưới và không đăng ký kết hôn. Chung sống đến năm cuối năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do không tôn trọng nhau nên thường xuyên bất hòa, mâu thuẫn không thể giải quyết được. Nhận thấy tình cảm không còn yêu cầu được ly hôn anh N.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Tiểu B, sinh ngày 20/6/2001 đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết về con chung.

Về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết, nợ chung: không có.

Bị đơn anh Nguyễn Sơn N trình bày anh và chị T chung sống với nhau vào năm 2000, không có đăng ký kết hôn, chung sống đến cuối năm 2020 thì không còn chung sống với nhau, nguyên nhân do mâu thuẫn trong cuộc sống, tính tình không còn phù hợp nhau. Nay chị T xin ly hôn anh đồng ý. Về con chung có 01 con chung tên Nguyễn Tiểu B, sinh ngày 20/6/2001 đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết về con chung. Về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết, nợ chung: không có.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật. Về ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về hôn nhân: chị T anh N kết hôn và không đăng ký kết hôn nên hôn nhân không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng sống chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và không còn chung sống với nhau từ năm 2021, trong thời gian nay hai bên cũng không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn; cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được do anh chị không đăng ký kết hôn căn cứ Điều 14, 53 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị không công nhận chị Loan và anh N là vợ chồng. Về con chung có 01 con chung tên Nguyễn Tiểu B, sinh ngày 20/6/2001 đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết về con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn có nơi cư trú tại xã LG, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung tranh chấp: Chị T và anh N chung sống với nhau vào năm 2000 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định nên hôn nhân không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong cuộc sống chung vợ chồng chị T và anh N bất đồng quan điểm thường xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân theo chị T trình bày anh N có quan hệ với người phụ nữ khác, anh N trình bày do chị T tham gia đánh bạc đến cuối năm 2021 thì không còn chung sống với nhau cho đến nay. Chị T xin ly hôn anh N đồng ý. Xét thấy chị T và anh N không còn chung sống đã lâu hai bên không có thiện chí hàn gắn nên mục đích hôn nhân không đạt được nhưng do chị T và anh N không đăng ký kết hôn. Căn cứ Điều 14 Luật hôn nhân gia đình không công nhận chị T và anh N là vợ chồng.

[3]. Về quan hệ con chung: chị T anh N có 01 con chung tên Nguyễn Tiểu B, sinh ngày 20/6/2001 đã trưởng thành nên không đề cập giải quyết.

[4]. Về quan hệ tài sản chung: không yêu cầu giải quyết.

[5]. Về quan hệ nợ chung: không có.

 [6]. Án phí hôn nhân sơ thẩm: chị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 14; 53 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 147; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Nguyễn Thị Kim T và anh Nguyễn Sơn N là vợ chồng.

Về quan hệ con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Tiểu B, sinh ngày 20/6/2001 đã trưởng thành nên không đề cập giải quyết.

Về quan hệ tài sản chung: không đề cập giải quyết.

Về quan hệ nợ chung: không có.

Về án phí hôn nhân sơ thẩm: chị Nguyễn Thị Kim T phải chịu 300.000đ được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai thu số 0010399 ngày 18/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới.

Báo cho các bên đương sự biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 106/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:106/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về