TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 95/2021/HN-ST NGÀY 08/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 08 tháng 07 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 152/2021/TLST-HN ngày 02 tháng 04 năm 2021 về việc tranh chấp “ ly hôn, nuôi con ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2021/QĐXXST-HN ngày 23 tháng 06 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Lê Sơn T, sinh năm 1985 ( có mặt ).
- Bị đơn: Chị Trương Thị Ái B, sinh năm 1991 ( xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: ấp L, xã P, huyện H, tỉnh Vĩnh Long.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn – Anh Lê Sơn T trình bày:
Do quen biết, anh và chị Trương Thị Ái B tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện A, tỉnh Phú Y. Vợ chồng sống chung đến đầu năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống nhiều mặt từ vấn đề kinh tế, lối sống của hai bên đến cách nuôi dạy con cái, mâu thuẫn vợ chồng giữa anh và chị B ngày càng trầm trọng không thể khắc phục, tình cảm vợ chồng phai nhạt, thường xuyên cãi nhau, sống chung không hạnh phúc. Nhận thấy đời sống vợ chồng giữa anh và chị B không thể tiếp tục kéo dài nên anh yêu cầu ly hôn chị Trương Thị Ái B.
- Về con chung: Có 02 con chung tên Lê Thị Tường V sinh ngày 20/7/2011 và Lê Trương Vy N sinh ngày 01/02/2015. Anh T yêu cầu nuôi dưỡng cháu Lê Thị Tường V, anh không yêu cầu chị B cấp dưỡng nuôi con và đồng ý giao cháu Lê Trương Vy N cho chị B nuôi dưỡng, anh không phải cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và khoản nợ phải thu, phải trả: Anh Lê Sơn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn: Chị Trương Thị Ái B trình bày tại tờ tường trình đề ngày 14/4/2021 như sau:
Chị kết hôn với anh Lê Sơn T vào ngày 24/5/2011 có đăng ký kết hôn tại xã C, huyện A, tỉnh Phú Y. Về việc anh Lê Sơn T yêu cầu ly hôn với chị, chị có ý kiến:
- Về hôn nhân: Chị B đồng ý ly hôn anh T vì chị cũng thấy không thể tiếp tục sống chung với anh T được nữa.
- Về con chung: Có 02 con chung tên Lê Thị Tường V sinh ngày 20/7/2011 và Lê Trương Vy N sinh ngày 01/02/2015. Chị yêu cầu nuôi dưỡng cháu Lê Trương Vy N, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con và đồng ý giao cháu Lê Thị Tường V cho anh T nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và khoản nợ phải thu, phải trả: Chị Trương Thị Ái B không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Do chị bận công việc làm ở xa không có thời gian đi lại để giải quyết việc ly hôn với anh T nên chị xin vắng mặt tại các phiên hòa giải và yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt chị.
Tại phiên tòa, anh Lê Sơn T vẫn giữ yêu cầu khởi kiện; chị Trương Thị Ái B vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết: Căn cứ Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định tranh chấp giữa các đương sự là “ ly hôn, nuôi con ”, bị đơn hiện cư trú tại xã P, huyện H, tỉnh Vĩnh Long nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.
[2] Về thủ tục tố tụng: Chị Trương Thị Ái B được triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng chị B có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt chị nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị B.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào giấy chứng nhận kết hôn số 35/2011, quyển số 02 do Ủy ban nhân dân xã C, huyện A, tỉnh Phú Y cấp ngày 24/5/2011 vì vậy có đủ cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa anh Lê Sơn T và chị Trương Thị Ái B là hôn nhân hợp pháp.
Căn cứ lời khai của nguyên đơn và bị đơn có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa thể hiện: Giữa anh T và chị B đã có nhiều mâu thuẫn với nhau và mâu thuẫn phát sinh từ năm 2015 đến nay vẫn không khắc phục được, tình cảm vợ chồng giữa anh T và chị B đã rạn nứt, không có khả năng hàn gắn, hai bên cũng không còn muốn tiếp tục chung sống với nhau, anh T yêu cầu ly hôn chị B, chị B cũng đồng ý ly hôn anh T. Căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu ly hôn của anh Lê Sơn T là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho anh Lê Sơn T ly hôn chị Trương Thị Ái B.
[4] Về con chung: Anh T, chị B có 02 con chung tên Lê Thị Tường V sinh ngày 20/7/2011 và Lê Trương Vy N sinh ngày 01/02/2015. Anh T yêu cầu nuôi dưỡng cháu Lê Thị Tường V, anh không yêu cầu chị B cấp dưỡng nuôi con và đồng ý giao cháu Lê Trương Vy N cho chị B nuôi dưỡng, anh không phải cấp dưỡng nuôi con.
Xét, anh T có yêu cầu nuôi dưỡng cháu Lê Thị Tường V, cháu V cũng có nguyện vọng sống chung với anh T, chị B cũng đồng ý giao cháu V cho anh T nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử giao cháu Lê Thị Tường V cho anh T nuôi dưỡng là có cơ sở.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh T không yêu cầu chị B cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.
Xét, chị B có yêu cầu nuôi dưỡng cháu Lê Trương Vy N, anh T cũng đồng ý giao cháu N cho chị B nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử giao cháu Trương Lê Vy N cho chị B nuôi dưỡng là có cơ sở.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị B không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.
[5] Về tài sản chung và khoản nợ phải thu, phải trả: Anh Lê Sơn T và chị Trương Thị Ái B không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[6] Về án phí Hôn nhân sơ thẩm: Anh Lê Sơn T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 147, Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho anh Lê Sơn T ly hôn chị Trương Thị Ái B.
2. Về con chung: Giao cháu Lê Thị Tường V sinh ngày 20/7/2011 cho anh Lê Sơn T nuôi dưỡng. Giao cháu Lê Trương Vy N sinh ngày 01/02/2015 cho chị B nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con: Anh T và chị B đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
3. Về tài sản chung và khoản nợ phải thu, phải trả: Anh Lê Sơn T và chị Trương Thị Ái B không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
4. Về án phí Hôn nhân sơ thẩm: Anh Lê Sơn T phải chịu 300.000đ ( Ba trăm nghìn đồng ) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí anh T đã nộp theo biên lai thu tiền số 0006618 ngày 02/4/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Hồ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai, có mặt nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Trương Thị Ái B vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết hoặc nhận được bản án.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 95/2021/HN-ST
Số hiệu: | 95/2021/HN-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về