Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 43/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 43/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 09-9-2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 93/2021/TLST-HNGĐ ngày 13-4-2021 về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 179/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01-7-2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Danh H, sinh năm 1986. Địa chỉ: Số 50, đường X, Khóm A, Phường B, thành phố ST, tỉnh Sóc Trăng. (có đơn xin vắng mặt)

- Bị đơn: Bà Lê Thị Mỹ D, sinh năm 1993. Địa chỉ: Số 157/39/02, đường N, khóm A, phường B, thành phố ST, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 30-3-2021, các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn là ông Danh H trình bày:

Ông H với bà D sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2008. Nhưng đến năm 2012 đi đăng ký kết hôn theo quy định H pháp luật, được UBND Phường B, thành phố Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 15, Quyển số 87/2012 vào ngày 28-12-2012. Đến năm 2013 do ông H bị kết án và đi chấp hành án phạt tù nên vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mỗi người có cuộc sống riêng, không thể hàn gắn lại tình cảm vợ chồng để tiếp tục chung sống với nhau, nên ông H yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết được ly hôn với bà Lê Thị Mỹ D theo quy định H pháp luật.

- Về con chung: ông H với bà D có một con chung tên Danh Tuấn K (nam, sinh ngày 13-6-2009). Nay ông Danh H yêu cầu được quyền nuôi con sau khi ly hôn, không yêu cầu bà D cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Ông H trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Công văn số 199/CV-PLĐ ngày 23-4-2021 của Phòng Lao động - Thương binh và xã hội thành phố Sóc Trăng về việc cung cấp ý kiến thì trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con, đề nghị Tòa án thành phố Sóc Trăng giải quyết theo quy định.

* Bị đơn bà Lê Thị Mỹ D được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, phiên hòa giải và giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng không có ý kiến trả lời cho Tòa án biết đối với yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của ông Danh H và cũng như vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra, giao nộp, công khai chứng cứ, phiên hòa giải và phiên tòa xét xử sơ thẩm.

* Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; Còn bị đơn vắng mặt, chưa chấp hành đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện xin ly hôn ông Danh H đối với bà Lê Thị Mỹ D, cho ông H được ly hôn với bà D theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, còn con chung cháu Danh Tuấn K giao cho ông H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành theo nguyện vọng của cháu Kiệt, không xem xét việc cấp dưỡng nuôi con do đương sự không yêu cầu; Tài sản chung, nợ chung không có, đề nghị Hội đồng xét xử không đặt xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến trình bày của đương sự. Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn ông Danh H có đơn xin vắng mặt, còn bị đơn bà Lê Thị Mỹ D được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy, bà D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 và khoản 1 Điều 238 H Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn bà Lê Thị Mỹ D theo quy định.

[2]. Về nội dung vụ án: Ông Danh H với bà Lê Thị Mỹ D sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2008. Nhưng đến năm 2012 đi đăng ký kết hôn theo quy định H pháp luật, được UBND Phường B, thành phố Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 15, Quyển số 87/2012 vào ngày 28/12/2012. Đến năm 2013 do ông H bị kết án và đi chấp hành án phạt tù nên vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nay ông H xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn lại tình cảm vợ chồng để tiếp tục chung sống với nhau, nên ông H nộp đơn yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết được ly hôn với bà D theo quy định pháp luật. Từ đó các bên phát sinh tranh chấp.

[3]. Về hôn nhân: Ông Danh H với bà Lê Thị Mỹ D sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2008. Nhưng đến năm 2012 đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, được UBND Phường B, thành phố Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 15, Quyển số 87/2012 vào ngày 28-12-2012 nên quan hệ hôn nhân giữa ông bà là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ khi có phát sinh tranh chấp. Tuy nhiên, theo ông H hôn nhân giữa ông với bà D không còn hạnh phúc, sau khi ông chấp hành án về thì vợ chồng không còn tình cảm với nhau, không thể hàn gắn lại để tiếp tục sống chung với nhau, do mỗi người đều có cuộc sống riêng, nên ông nộp đơn xin ly hôn. Xét yêu cầu xin ly hôn của ông Danh H đối với bà D thì thấy, đến thời điểm hiện nay mâu thuẫn hôn nhân giữa ông bà đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, tình trạng hôn nhân không thể kéo dài vì hai vợ chồng đã sống ly thân hơn 07 năm, không còn tình cảm với nhau và bị đơn bà D cũng không có ý kiến gì phản đối với yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn ông H nên Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Danh H đối với bà Lê Thị Mỹ D.

[4]. Về con chung: Ông H với bà D có một con chung tên Danh Tuấn K, sinh ngày 13/6/2009, hiện ông H đang trực tiếp nuôi dưỡng. Nay ông H yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con sau khi ly hôn, không yêu cầu bà D cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, yêu cầu của ông H là phù hợp với điều kiện thực tế và quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, bởi vì cháu K hiện đang được ông H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 19-5-2021 của Tòa án thì cháu K có nguyện vọng được tiếp tục chung sống với ông H, bị đơn bà D cũng không có ý kiến gì phản đối về yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con của ông H, nên yêu cầu được quyền nuôi con sau khi ly hôn của ông H là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận. Về cấp dưỡng nuôi con, do ông H không yêu cầu bà D cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5]. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6]. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 H Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ông Danh H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định là 300.000 đồng.

[7]. Ý kiến phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 238; Điều 271; khoản 1, khoản 3 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 H Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Căn cứ Điều 51; Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Ông Danh H được ly hôn với bà Lê Thị Mỹ D.

2. Về con chung: Giao cháu Danh Tuấn K, sinh ngày 13-6-2009 cho ông Danh H tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

Dành cho bà Lê Thị Mỹ D được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền ngăn cản.

Về cấp dưỡng nuôi con, do ông Danh H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông Danh H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007642 ngày 01/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, như vậy ông H đã nộp xong.

5. Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Do các đương sự vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo trình tự, thủ tục phúc thẩm.

6. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

377
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 43/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:43/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:09/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về