Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 54/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LA GI, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 54/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 342/2022/TLST-HNGĐ, ngày 26/7/2022, về: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 29/8/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 41/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 14/9/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Đỗ Thế S, sinh năm 1985(Vắng mặt)

Địa chỉ: Khu phố 6, phường T, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận

Bị đơn: Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1986(Vắng mặt)

Địa chỉ: Khu phố 6, phường T, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phan Thị Kim N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Nguyễn Thị Thu T đăng ký kết hôn tại UBND phường Tân An, thị xã La Gi năm 2008. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nghiêm trọng do vợ chồng thường hay cãi nhau vì bất đồng quan điểm sống. Hiện nay ông bà đã sống ly thân, mạnh ai nấy sống, không quan tâm lẫn nhau và ông không còn tình cảm với bà T nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông ly hôn với bà T.

Về con chung: Vợ chồng có với nhau được 02 người con chung tên Đỗ Nguyễn Thành M, sinh ngày 29/10/2013 và Đỗ Nguyễn Khánh P, sinh ngày 03/11/2009. Nếu ly hôn, ông giao 02 con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, ông cấp dưỡng cho mỗi con chung 1.500.000 đồng /tháng; thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho đến khi 02 con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa giải quyết.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Thu T: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập, cũng như đã tống đạt hợp lệ nhiều lần các văn bản tố tụng cho bị đơn, nhưng bị đơn không chấp hành và cũng không có văn bản trình bày ý kiến nộp Tòa án. Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do, nên không hòa giải được. Tại phiên tòa, bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử sơ thẩm: Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự; Thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật, tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng là phù hợp quy định pháp luật; việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử thực hiện đúng phiên tòa sơ thẩm; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Đương sự đã thực hiện theo quy định.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về hôn nhân: Ông Đỗ Thế S được ly hôn bà Nguyễn Thị Thu T. Về con chung: Giao con chung Đỗ Nguyễn Thành M, sinh ngày 29/10/2013 và Đỗ Nguyễn Khánh P, sinh ngày 03/11/2009 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, ông S cấp dưỡng cho mỗi con chung 1.500.000 đồng /tháng; thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho đến khi 02 con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động. Tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không giải quyết. Về án phí: Ông S phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; sau khi nghe quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Ông Đỗ Thế S khởi kiện bà Nguyễn Thị Thu T về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”. Bị đơn bà T có nơi cư trú tại Khu phố 6, phường T, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận. Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tranh chấp ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận.

- Nguyên đơn ông S có đơn xin vắng mặt và bị đơn bà T đã được Toà án triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung là phù hợp quy định của Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: Ông S yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà T. Về con chung: ông S giao cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, ông cấp dưỡng cho mỗi con chung 1.500.000 đồng /tháng; thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho đến khi 02 con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà T không có mặt để giải quyết vụ án này, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần. Việc vắng mặt này của bà Trang được coi là từ bỏ quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của mình. Hội đồng xét xử xem xét các chứng cứ nguyên đơn cung cấp, tài liệu thu thập được để giải quyết vụ án.

Xét, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy, giữa ông S và bà T tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn vào năm 2008 tại phường Tân An, thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận, nên quan hệ hôn nhân của ông bà là hợp pháp. Quá trình chung sống giai đoạn đầu vợ chồng sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn nghiêm trọng do vợ chồng thường hay cãi nhau vì bất đồng quan điểm sống. Hiện nay ông bà đã sống ly thân, mạnh ai nấy sống, không quan tâm lẫn nhau nên việc vợ chồng hàn gắn là rất khó. Ngoài ra, bà T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không chấp hành, cũng không có văn bản trình bày ý kiến gởi đến Tòa án, điều này chứng tỏ bà T không có thiện chí giữ gìn quan hệ hôn nhân, cũng như giữa ông, bà không có giải pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ những căn cứ trên, nhận thấy mâu thuẫn giữa ông S và bà T đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không còn tồn tại, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho ông Sinh ly hôn bà Trang là phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Giao con chung tên Đỗ Nguyễn Thành M, sinh ngày 29/10/2013 và Đỗ Nguyễn Khánh P, sinh ngày 03/11/2009 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, ông S cấp dưỡng cho mỗi con chung 1.500.000 đồng /tháng; thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho đến khi 02 con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động là phù hợp Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Ông S không có yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Ông S phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 228; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án .

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông Đỗ Thế S được ly hôn bà Nguyễ Thị Thu T.

[2] Về con chung: Giao con chung tên Đỗ Nguyễn Thành M, sinh ngày 29/10/2013 và Đỗ Nguyễn Khánh P, sinh ngày 03/11/2009 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, ông S cấp dưỡng cho mỗi con chung 1.500.000 đồng /tháng; thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho đến khi 02 con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Ông Đỗ Thế S phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con. Nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0012776 ngày 25/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã La Gi, ông S còn phải nộp thêm 300.000 đồng [5] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 54/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:54/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về