Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 53/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 53/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 06 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 138/2022/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1984; thường trú: Ấp T, xã L, huyện B, tỉnh An Giang; tạm trú: Số 45/3, khu phố 2, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương, (có mặt).

- Bị đơn: Bà Lê Thị L, sinh năm 1981; thường trú: Ấp T, xã L, huyện B, tỉnh An Giang; tạm trú: Số 93/5, khu phố T, phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương, (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1962 và bà Lê Thị A, sinh năm 1955; cùng thường trú: Ấp T, xã L, huyện B, tỉnh An Giang, (có yêu cầu giải quyết vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 01/3/2022 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Nguyễn Văn V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Trước khi kết hôn ông V và bà L tìm hiểu nhau khoảng 01 năm, được sự đồng ý của gia đình, ông bà có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tân Bình, thị xã Dĩ An “nay là thành phố Dĩ An”, tỉnh Bình Dương, được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 78/2015, quyển số 01 ngày 27/8/2015. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Vợ chồng hạnh phúc được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Vì sống chung với cha mẹ chồng nên thường xảy ra những mâu thuẫn giữa mẹ chồng – nàng dâu, mỗi lần cãi nhau bà L thường ăn nói hỗn hào với mẹ chồng. Hơn nữa, vợ chồng còn mâu thuẫn về kinh tế, hai vợ chồng đều làm công nhân, do ông V là con trai một sống cùng với cha mẹ nên phần lớn thu nhập hàng tháng ông V đưa cho cha mẹ để ông bà trang trải cuộc sống và nuôi con ông V, phần còn lại ông V giữ lại để tiêu xài cho bản thân chứ không đưa tiền cho vợ nên vợ chồng thường cãi nhau về vấn đề tiền bạc. Cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên từ đầu năm 2021 ông V đã đưa cháu B về quê sống cùng ông bà, vợ chồng chính thức sống ly thân. Nay ông V xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với bà L.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Lê Gia B, sinh ngày 13/03/2016, hiện nay con đang sống chung với cha mẹ ông V tại Ấp T, xã L, huyện B, tỉnh An Giang. Hiện nay, ông V vẫn đang sinh sống và làm việc ở Bình Dương, hàng tháng ông V gửi tiền về nuôi con. Tuy nhiên, do từ nhỏ con đã quen sống chung với ông bà nội, để con không bị xáo trộn về tâm lý khi phải thay đổi môi trường sống và môi trường học tập, nên ông V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu bà L thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Ông V không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nghĩa vụ chung: Ông V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn bà Lê Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà L thống nhất lời trình bày của nguyên đơn về thời gian kết hôn, về điều kiện kết hôn, về thời gian chung sống. Bà L xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống, không có tiếng nói chung, vợ chồng mâu thuẫn về vấn đề kinh tế nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Vợ chồng sống với nhau nhưng không xây dựng kinh tế chung, tiền của ai người đấy xài, ông V là chồng nhưng lương hàng tháng bao nhiêu tiền bà L không biết. Tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt nên từ đầu năm 2021 vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nay bà L xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông V.

Về con chung: Qúa trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Lê Gia B, sinh ngày 13/3/2016. Trước đây con sống chung với vợ chồng ông V, bà Lvà cha mẹ chồng, nhưng từ đầu năm 2021 do ông nội của anh Vchết nên cha mẹ chồng đưa cháu B về quê cho đến nay. Mỗi lúc nhớ con, bà L điện Zalo để gặp nhưng lúc nào cha mẹ chồng cho gặp thì mới gặp được. Mỗi lần bà L đòi gặp con thì ông V cấm không cho gặp và nói “để cho tôi sống trong sự đau khổ nhớ con mà chết” và cấm bà L không được về quê thăm con. Hàng tháng, bà L gởi tiền về nuôi con nhưng ông V không lấy, bà L mua đồ cho con và mang đến công ty ông V để ông V gửi về quê nhưng ông V không ra gặp, gọi điện không bắt máy. Hiện nay, bà L đang sống ở Bình Dương với cha mẹ ruột, ông bà có nhà cửa ổn định, bà L đi làm công ty, làm giờ hành chính nên có điều kiện tốt hơn để nuôi con.Vì vậy, trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì bà L yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu ông V thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ chung: Bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị A và ông Nguyễn Văn H trình bày: Ông bà là cha mẹ ruột của anh Nguyễn Văn V. Hiện nay cháu Nguyễn Lê Gia B, sinh ngày 13/3/2016 đang sống chung với ông bà. Cháu B được anh V và chị L gửi về quê nhờ ông bà chăm sóc từ đầu năm 2021. Anh V nói gửi cháu cho ông bà nuôi lâu dài vì anh V bận đi làm ca không chăm sóc được cháu, hơn nữa cháu B sống chung với ông bà từ lúc sinh ra đến giờ nên cháu muốn sống cùng ông bà. Ông bà là người trực tiếp nuôi dưỡng nên có quyền quyết định các vấn đề ăn uống, ngủ nghỉ, học hành của cháu. Ông bà biết vợ chồng anh V có mâu thuẫn từ năm 2021 do bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cải nhau. Nay anh V yêu cầu ly hôn với chị L thì ông bà đồng ý. Nếu anh V ly hôn thì ông bà sẽ giao cháu B cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án, nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Về quan hệ hôn nhân: Tại phiên tòa ông V và bà L đồng ý ly hôn. Xét đây là sự tự nguyện của đương sự, không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Lê Gia B, sinh ngày 13/3/2016, ông V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu bà L cấp dưỡng. Xét thấy, việc chăm sóc con chưa thành niên là nghĩa vụ cũng là quyền của cha mẹ. Tuy nhiên, từ đầu năm 2021 ông V đưa con về quê sống cùng ông bà nội mà không cho cháu gặp mẹ, bà L gửi tiền và mua đồ cho con nhưng ông V tránh né không cho bà L liên lạc hay chăm sóc con. Về điều kiện về chỗ ở, thời gian bà L có quỹ thời gian phù hợp để quan tâm, chăm sóc cũng như đưa đón cháu đi học. Bà L hiện sinh sống và làm việc tại thành phố Dĩ An giáp ranh với thành phố Thuận An nơi ông V sinh sống, nếu giao con cho bà L nuôi dưỡng không ảnh hưởng đến quyền thăm nom, chăm sóc con của ông V. Do đó, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu trực tiếp nuôi con của ông V, cần buộc ông V, bà A và ông H giao cháu Nguyễn Lê Gia B cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng. Bà L không yêu cầu ông V thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nên ghi nhận. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung các đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn H và bà Lê Thị A đều có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Ông V và bà L có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tân Bình, thị xã Dĩ An “nay là thành phố Dĩ An”, tỉnh Bình Dương và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 78/2015, quyển số 01 ngày 27/8/2015 nên đây là hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Ông V và bà L đều thống nhất vợ chồng sống hạnh phúc được 05 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn vì tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm, mâu thuẫn về vấn đề kinh tế nên thường xuyên cãi nhau. Từ đầu năm 2021 đến nay, vợ chồng đã sống ly thân. Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm, bà L đồng ý ly hôn với ông V nên ghi nhận.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Lê Gia B, sinh ngày 13/3/2016. Ông V và bà L đều có yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và không ai đặt ra yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay cháu B đang sống cùng ông bà nội tại Ấp T, xã L, huyện B, tỉnh An Giang. Khi Tòa án giải quyết việc ly hôn cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Bà L làm công nhân thu nhập từ công việc chính khoảng 7.000.000 đồng, ngoài ra bà L còn có nguồn thu nhập từ bán hàng online 4.000.000 đồng/tháng, thời gian làm việc cố định. Ông V cũng làm công nhân, mức lương khoảng 14.000.000 đồng/tháng, một tuần làm 06 ngày chia làm 03 ca và cứ 02 ngày đảo ca 01 lần. Ông V làm việc tại tỉnh Bình Dương, đang thuê nhà ở, điều kiện về thời gian để chăm sóc con cũng gặp khó khăn hơn. Xét thấy, cháu B hiện còn nhỏ cần sự quan tâm, chăm sóc từ người mẹ. Bà L có việc làm, thu nhập và chỗ ở ổn định đảm bảo tốt cho việc chăm sóc và nuôi dưỡng con. Bà L làm giờ hành chính, nên có điều kiện về thời gian để đưa đón con đi học và chăm sóc con. Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao cháu B cho bà L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

[4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[5] Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu ly hôn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn V phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, 227, 228 và các Điều 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn V được ly hôn với bà Lê Thị L. (Giấy chứng nhận kết hôn số 78/2015, quyển số 01 ngày 27/8/2015 do UBND phường Tân Bình, thị xã Dĩ An “nay là thành phố Dĩ An”, tỉnh Bình Dương cấp).

2. Về con chung: Buộc ông Nguyễn Văn V, bà Lê Thị A và ông Nguyễn Văn H giao con chung cháu Nguyễn Lê Gia B, sinh ngày 13/03/2016 cho bà Lê Thị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Lê Thị L không yêu cầu ông Nguyễn Văn V cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, ông Nguyễn Văn V và bà Lê Thị L đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở ông, bà thực hiện quyền này. Trường hợp ông V lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc bà L nuôi con thì bà L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn V phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003560, ngày 10-03-2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

5. Nguyên đơn, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 53/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:53/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về