Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 298/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 298/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 21 tháng 06 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình đã thụ lý số: 61/2021/TLST-HNGĐ ngày 02/03/2021 về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/5/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Hồng T, sinh năm 1995 (xin vắng mặt);

Địa chỉ: ấp T, xã Đ, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang;

Bị đơn: Anh Đào Nhật L, sinh năm 1993 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp LT, xã Đ, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 01/02/2021, nguyên đơn chị Nguyễn Hồng T trình bày: Chị và anh L cưới nhau vào năm 2018 và có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh L có quan hệ tình cảm bất chính với người con gái khác, không quan tâm đến gia đình, chị và anh L đã ly thân từ ngày 01/12/2020 đến nay, xét tình cảm không còn chị xin được ly hôn với anh L.

Về con chung: Có 01 con chung là cháu Đào Thiên P, sinh ngày 07/01/2019. Sau khi ly hôn chị T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi cháu P mỗi tháng 750.000 đồng cho đến khi cháu P đủ 18 tuổi lao động được.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

* Bị đơn anh Đào Nhật L: Trong suốt quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Đào Nhật L biết để tham gia theo quy định nhưng anh L vẫn không có mặt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng không cung cấp chứng cứ hoặc có ý kiến bằng văn bản.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án như sau:

Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Chị Nguyễn Hồng T và anh Đào Nhật L đã ly thân từ tháng 12/2020 đến nay. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh L đã trầm trọng, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T về việc xin ly hôn với anh Đào Nhật L, giao con chung là cháu Đào Thiên P cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án; Sự có mặt, vắng mặt đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy:

Chị Nguyễn Hồng T và anh Đào Nhật L tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 29 do Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang cấp ngày 04 tháng 06 năm 2018 nên có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh L là hợp pháp.

Chị T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh L và yêu cầu được nuôi dưỡng con chung nên đây là vụ án tranh chấp “Ly hôn, nuôi con”. Xét anh Đào Nhật L cư trú tại ấp LT, xã Đ, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn chị Nguyễn Hồng T có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Đào Nhật L đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, anh Đào Nhật L vắng mặt không lý do. Căn cứ các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị T và anh L.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Hồng T về việc được ly hôn anh Đào Nhật L, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Căn cứ vào lời trình bày, các chứng cứ do đương sự cung cấp thì giữa chị Nguyễn Hồng T và anh Đào Nhật L sống chung năm 2018, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang ngày 04/6/2018. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2020, chị T và anh L phát sinh nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm. Chị T và anh L đã sống ly thân từ tháng 12/2020 cho đến thời điểm hiện tại, cuộc sống vợ chồng tự ai nấy lo, không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.

Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Đào Nhật L nhưng anh L không có ý kiến gì đối với yêu cầu được ly hôn của chị T. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự thì xem như anh L không có phản đối gì đối với yêu cầu được quyền ly hôn của chị T.

Vì thế Hội đồng xét xử xét thấy cuộc sống vợ chồng giữa chị T và anh L không còn hạnh phúc, cuộc sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được cho nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Nguyễn Hồng T.

[3]. Xét về yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung, Hội đồng xét xử xét thấy:

Chị T và anh L có 01 con chung là cháu Đào Thiên P sinh ngày 07/01/2019. Hiện nay cháu P đang sống cùng chị T.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hiện nay cháu P sống với chị T sức khỏe vẫn tốt, phát triển bình thường. Đồng thời trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Đào Nhật L nhưng anh L không có ý kiến gì về việc con chung.

Do đó, để đảm bảo về vật chất, tinh thần và sự phát triển bình thường của con chung, việc giao con chung là cháu Đào Thiên P cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp.

[4] Về yêu cầu cấp dưỡng: Theo biên bản hòa giải ngày 13/5/2021, chị T yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi cháu P mỗi tháng 750.000 đồng/tháng cho đến khi cháu P đủ 18 tuổi.

Trên cơ sở quy định của pháp luật Hội đồng xét xử xét thấy trách nhiệm nuôi con là của chung hai vợ chồng do vậy cần buộc anh Đào Nhật L có nghĩa vụ đóng góp cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình "Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đã thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết".

Chị T và anh L không tự thỏa thuận được mức cấp dưỡng nuôi con. Xét theo thu nhập thực tế của anh L, nhu cầu thiết yếu của cháu P, Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc anh L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu P mỗi tháng 750.000 đồng là phù hợp.

Thời gian cấp dưỡng bắt đầu từ ngày án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu P đủ 18 tuổi, lao động được.

[5] Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[7] Về án phí: Chị Nguyễn Hồng T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm. Anh Đào Nhật L phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ các điều 147, 227, 228, 264, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự. Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Hồng T về việc xin ly hôn với anh Đào Nhật L.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Hồng T được quyền ly hôn anh Đào Nhật L.

Về con chung: Giao cháu Đào Thiên P sinh ngày 07/01/2019 cho chị Nguyễn Hồng Thắm nuôi dưỡng cho đến khi cháu Đào Thiên P đủ 18 tuổi, lao động được.

Không ai được cản trở cha mẹ thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Đào Nhật L cấp dưỡng nuôi cháu Đào Thiên P mỗi tháng 750.000 đồng/tháng, thời gian thực hiện bắt đầu khi án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu Đào Thiên P đủ 18 tuổi, lao động được.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ theo nội dung quyết định này thì hàng tháng phải trả tiền lãi theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Vì lợi ích của con chung khi cần thiết có thể thay đổi người nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Hồng T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị T đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004671 ngày 23/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, nên xem như nộp xong án phí.

Anh Đào Nhật L phải chịu 300.000 đồng án phí về việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Chị Nguyễn Hồng T và anh Đào Nhật L được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết họp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 298/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:298/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về