Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 45/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 45/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 28 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 327/2021/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2021 về Tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 19/2022/QĐST- HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Đình Qu, sinh năm 1990; thường trú: Số 925/72/10 (số cũ 19/13A) đường ĐT 743A, khu phố T L, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Chị Chao Mỹ H, sinh năm 1991; thường trú: Số 925/72/10 (số cũ 19/13A) đường ĐT 743A, khu phố T L, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn anh Nguyễn Đình Qu trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Đình Qu và chị Chao Mỹ H sau thời gian tìm hiểu khoảng 01 năm thì tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 174/KH, quyển số 01/2014 cấp ngày 28/11/2014. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống số 925/72/10 (số cũ 19/13A) đường ĐT 743A, khu phố T L, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc đến đầu năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn cho đến nay. Nguyên nhân do vợ chồng thường xuyên cãi vã, bất đồng quan điểm sống, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau và hiện tại vợ chồng sống ly thân. Nay nguyên đơn anh Nguyễn Đình Qu xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với bị đơn chị Chao Mỹ H.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Thị Mỹ D, sinh năm 08/12/2019. Sau khi ly hôn, anh Qu yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn chị Chao Mỹ H: Tòa án đã triệu tập hợp lệ để cung cấp bản tự khai ngày 20/12/2021, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 21/3/2022; tham gia phiên tòa vào các ngày 08/4/2022 và ngày 28/4/2022 nhưng vắng mặt không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu của anh Quang và cũng không cung cấp tài liệu chứng cứ cho Tòa án.

- Tại biên bản xác minh nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh Quang và chị Hạnh do Tòa án tiến hành ngày 03/12/2021, chính quyền địa phương cung cấp thông tin như sau: Anh Qu và chị H trước khi nộp đơn khởi kiện xin ly hôn tại Tòa án anh Qu không yêu cầu chính quyền địa phương tổ chức hòa giải cơ sở. Quá trình chung sống thực tế mâu thuẫn giữa hai vợ chồng, vấn đề chăm sóc, nuôi dạy con chung như thế nào chính quyền địa phương không nắm rõ vì không thấy đại diện khu phố hay địa phương phản ánh hay cung cấp thông tin gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự: Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn được triệu tập 02 lần tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

Về hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống không hạnh phúc do mâu thuẫn kéo dài, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn và yêu cầu giải quyết về con chung là có cơ sở chấp nhận. Về tài sản chung và nợ chung nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào các ngày 08/4/2022 và 28/4/2022 nhưng vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả các đương sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Năm 2014, anh Nguyễn Đình Qu và chị Chao Mỹ H tự nguyện tìm hiểu tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 174/KH, quyển số 01/2014 cấp ngày 28/11/2014 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

Xét thấy, mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Nguyên đơn xác định sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu năm 2021 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do vợ chồng thường xuyên cải vã, bất đồng quan điểm sống, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, hiện tại vợ chồng sống ly thân. Từ đó dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, không tìm được tiếng nói chung, làm cho không khí gia đình ngột ngạt nên tình cảm của nguyên đơn giành cho bị đơn cũng phai nhạt dần. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập bị đơn đến làm việc, hòa giải nhằm mục đích hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bị đơn không có mặt. Vì vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải đoàn tụ quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng anh Qu và chị H. Do, đó nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Tòa án chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Thị Mỹ D, sinh năm 08/12/2019. Hiện con chung đang ở cùng với anh Qu, nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng. Việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét về mọi mặt của con chưa thành niên. Trong suốt quá trình tố tụng, mặc dù đã được Tòa án niêm yết các văn bản có nêu rõ yêu cầu của nguyên đơn về việc nuôi dưỡng con chung cho bị đơn nhưng bị đơn không có ý kiến phản đối gì. Xét thấy, cháu D từ nhỏ đến nay chung sống với anh Qu nhưng vẫn phát triển tốt, hơn nữa chị H hiện bỏ đi đâu làm gì chính quyền địa phương không biết. Vì vậy, Tòa án chấp nhận yêu cầu giao con chung Nguyễn Thị Mỹ D cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2.3] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Nguyễn Đình Qu không yêu cầu chị Chao Mỹ H phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyên của nguyên đơn anh Qu.

[3] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[4] Từ những phân tích nêu trên, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ cở chấp nhận. Đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương là phù hợp.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, 227, 238, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Đình Qu đối với bị đơn chị Chao Mỹ H.

Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Đình Qu được ly hôn với chị Chao Mỹ H. (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 174/KH, quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương cấp ngày 28/11/2014).

Về con chung: Chị Chao Mỹ H giao con chung tên Nguyễn Thị Mỹ D, sinh năm 08/12/2019 cho anh Nguyễn Đình Qu trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Nguyễn Đình Qu không yêu cầu chị Chao Mỹ H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn anh Nguyễn Đình Qu và chị Chao Mỹ H có quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Anh Nguyễn Đình Qu phải tạo điều kiện cho chị Chao Mỹ H trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

2. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Đình Qu phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí về ly hôn được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003120 ngày 09/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

4. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 45/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:45/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về