Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 39/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀ BÌNH, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 39/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 17 tháng 06 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 80/2022/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 03 năm 2022 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2022/QĐXX-ST ngày 12 tháng 05 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2022/QĐST- DS ngày 30 tháng 05 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Sơn Ngọc V, sinh năm 1982 (Có đơn xin vắng mặt);

Địa chỉ: atta, ttHB, hHB, tBL.

2. Bị đơn: Anh Trần Si N, sinh năm 1982 (vắng mặt);

Địa chỉ: atta, ttHB, hHB, tBL.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 22 tháng 02 năm 2022 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Sơn Ngọc V trình bày: Chị và anh Trần Si N xây dựng hôn nhân vào năm 2001, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương, nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống chị V và anh N có 03 người con chung tên Trần Hoài N, sinh ngày 19/03/2003 đã trưởng thành, Trần Thanh H, sinh ngày 06/04/2004 và Trần Ngọc H, sinh ngày 30/01/2010. Hiện cháu N có cuộc sống tự lập, còn cháu H, cháu H đang sống chung với chị V. Vợ chồng chị V không có tạo lập về tài sản chung và không có nợ chung.

Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị V với anh N là do bất đồng quan điểm sống, hàng ngày do anh N thường xuyên nhậu nhẹt và đánh đập chị V, thường xuyên, xảy ra xung đột, cải vã N dẫn đến cuộc sống chung của vợ chồng không có hạnh phúc và vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ năm 2016 cho đến nay.

Nay chị V yêu cầu được ly hôn với anh Trần Si N và yêu cầu tiếp tục nuôi cháu H, cháu H, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con. Ngoài ra, chị V không còn ý kiến trình bày gì thêm.

Riêng anh Trần Si N không có lời trình bày tại Tòa án. Tuy nhiên, Tòa án có giao Thông báo về việc thụ lý vụ án số 80/TB-TLVA ngày 04 tháng 03 năm 2022, giải thích quyền và nghĩa vụ cho anh N khi nhận văn bản của Tòa án. Nhưng anh N không nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị V là nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. Ngoài ra, Tòa án cũng giao Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa giải lần 1 và lần 2 cho anh N, nhưng anh N không đến dự phiên hòa giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Vì vậy, theo quy định pháp luật nếu bị đơn không cung cấp, tài liệu, chứng cứ cũng như ý kiến của mình thì Tòa án căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu.

* Về thủ tục tố tụng: Quá trình từ khi thụ lý đến khi xét xử vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung đề xuất: Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ các Điều 14, Điều 53, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

* Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không công nhận chị Sơn Ngọc V đối với anh Trần Si Nlà vợ chồng. Về con chung: Giao cháu Trần Ngọc Huỳnh, sinh ngày 30/01/2010 cho chị V tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh N không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do chị V không yêu cầu, anh N được quyền thăm nom con chung không ai được quyền cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không đặc ra xem xét.

4. Án phí hôn nhân và gia đình: Chị Sơn Ngọc V phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên toà, chị Sơn Ngọc V và anh anh Trần Si Nvắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về hôn nhân: Chị Sơn Ngọc V và anh Trần Si N chung sống với nhau vào năm 2001, nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, điều này được chị V thừa nhận. Quá trình chung sống, chị V, anh N thường cự cãi do bất đồng quan điểm, từ đó mâu thuẫn ngày càng lớn, hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng đã ly thân từ năm 2016 cho đến nay, mặc dù chị V, anh N không có thiện chí hàn gắn tình cảm. Điều này cho thấy tình trạng hôn nhân giữa chị V, anh N là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được cần xem xét cho ly hôn. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống chị V, anh N không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật là vi phạm vào Điều 14 của Luật Hôn nhân và Gia đình, nên căn cứ theo quy định khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình thì quan hệ hôn nhân giữa chị V, anh N không phải là hôn nhân hợp pháp, không được pháp luật thừa nhận, nên không công nhận chị Sơn Ngọc V và anh Trần Si Nlà vợ chồng.

[3]. Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống với nhau chị V và anh N có 03 người con chung tên Trần Hoài N, sinh ngày 19/03/2003 đã trưởng thành, Trần Thanh H, sinh ngày 06/04/2004 và Trần Ngọc H, sinh ngày 30/01/2010, hiện tại cháu N sống tự lập còn cháu H, cháu H đang sống cùng với chị V và chị V yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cháu H, cháu H. Xét thấy, hiện nay cháu H, cháu H đang sống ổn định cùng với chị V. Do đó, để đảm bảo sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, cũng như không làm xáo trộn đến cuộc sống bình thường của cháu H, cháu H.

Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị V được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu H, cháu H.

Anh N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở.

[4]. Về cấp dưỡng: Chị V không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con, xét đây là sự tự nguyện của chị V nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5]. Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6]. Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, chị V phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

[7]. Từ những nhận định trên, xét đề nghị của Kiểm sát viên- đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

1/- Về hôn nhân: Không công nhận chị Sơn Ngọc V và anh Trần Si N là vợ chồng.

2/- Về con chung: Giao cháu Trần Ngọc H, sinh ngày 30/01/2010 cho chị V tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục. Anh N không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị V không yêu cầu. Anh N có quyền, nghĩa vụ thăm non con chung mà không ai được cản trở.

3/- Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình: Chị Sơn Ngọc V phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Chị V đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0002978 ngày 04/03/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoà Bình được chuyển thu án phí.

Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 39/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:39/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòa Bình - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về