Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 29/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 29/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 31/3/2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 257/2021/TLST - HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2021 về tranh chấp "Ly hôn, nuôi con chung" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2022/QĐXX-ST ngày 21 tháng 3 năm 2022; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H – sinh năm 1994. Địa chỉ: Xóm Liên Giang, xã T, huyện Yên Thành, Nghệ An

2.Bị đơn: Anh Nguyễn Bá Đ ; sinh năm 1992 Địa chỉ: Xóm Liên Giang, xã T, huyện Yên Thành, Nghệ An; ( các đương sự có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và các lời khai ngày 20/11/2021 trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Vũ Thị H trình bày: Chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Bá Đ đăng ký kết hôn ngày 24/6/2020 tại UBND xã T, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Trước khi kết hôn chị H và anh Đ có quá trình tìm hiểu, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc. Sau ngày kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do chị H và anh Đ tính tình không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống. Chung sống không hòa thuận, cuộc sống thường xảy ra cãi vã nhau rồi dẫn đến xô xát. Sự việc xảy ra thường xuyên, tuy đã được hai gia đình nội ngoại hoà giải nhưng không đem lại kết quả, anh Đ đã đuổi chị H ra khỏi nhà, không cho thăm con mặc dù con mới được 04 tháng tuổi. Chị H và anh Đ đã sống ly thân từ ngày 28/10/2021 cho đến nay. Hiện tại chị H xác định không còn tình cảm với anh Đ , đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị H yêu cầu Toà giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Bá Đ .

Về con chung: Vợ chồng có một con chung tên là Nguyễn Bá Nh A - giới tính: Nam - sinh ngày 7/6/2021. Ly hôn chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cháu Nh A cho đến 18 tuổi trưởng thành và yêu cầu anh Nguyễn Bá Đ cấp dưỡng nuôi con cùng chị H mỗi tháng 1.000.000đ(Một triệu đồng) bắt đầu từ tháng 4 năm 2022 cho đến lúc con chung trưởng thành(đủ 18 tuổi).

Về tài sản chung và khoản nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến trình bày của anh Nguyễn Bá Đ :

Anh Nguyễn Bá Đ thừa nhận lời trình bày của chị H về thời gian và điều kiện kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Đ và chị H tính tình không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống. Chung sống không hòa thuận, cuộc sống thường xảy ra cãi vã nhau rồi dẫn đến xô xát. Sự việc xảy ra thường xuyên, tuy đã được hai gia đình nội ngoại hoà giải nhưng không đem lại kết quả. Anh Đ và chị H đã sống ly thân từ ngày 28/10/2021 cho đến nay. Hiện tại anh Đ vẫn đang còn tình cảm với chị H , nên việc chị H khởi kiện ra Tòa án yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Đ , anh Đ không đồng ý ly hôn.

Về con chung anh Đ nhất trí như lời trình bày của chị H . anh Đ và chị H có 01 con chung là cháu Nguyễn Bá Nh A - giới tính: Nam - sinh ngày 7/6/2021. Ly hôn anh Nguyễn Bá Đ có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nh A cho đến tuổi trưởng thành(đủ 18 tuổi) và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và khoản nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh luận tại phiên Toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1].Về thẩm quyền xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án yêu cầu ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Yên Thành.

Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên Toà sơ thẩm nguyên đơn và bị đơn có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, có mặt tại phiên họp tiếp cận công khai kiểm tra chứng cứ và phiên hòa giải tiến hành các bước thu thập chứng cứ, hòa giải theo quy định pháp luật. Tòa án đã tiến hành các bước tiếp cận công khai kiểm tra chứng cứ và phiên hòa giải tiến hành, cho các bên trình bày lời khai, hòa giải đoàn tụ.

[2].Về quan hệ hôn nhân: chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Bá Đ có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An theo Giấy chứng nhận kết hôn số 42 quyển số 01/2020/TLKH - BS ngày 24/6/2020, không vi phạm Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Xét thấy: Cuộc sống hôn nhân giữa chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Bá Đ có đăng ký kết hôn vợ chồng hòa thuẫn một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị H và anh Đ không thông cảm cho nhau, sau khi sinh con thì chị H thấy áp lực và cuộc sống chung ngột ngạt, nảy sinh bất đồng quan điểm cũng như những vấn đề khác trong cuộc sống, không thể cùng nhau xây dựng hạnh phức gia đình, nên đã thường xẩy ra mâu thuẫn dẫn đến tình cảm không còn. Chị Vũ Thị H thấy cuộc sống hôn nhân mâu thuẫn trầm trọng, chị H và anh Đ đã ly thân không còn sống chung lâu nay. Xác định tình cảm không còn chị Vũ Thị H cương quyết xin được ly hôn. Xét thấy anh Đ đã cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị H cương quyết ly hôn, mối quan hệ vợ chồng không thể hàn gắn và kéo dài.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Vũ Thị H là được ly hôn với anh Nguyễn Bá Đ .

[3].Về con chung: Xét thấy cháu Nguyễn Bá Nh A - giới tính: Nam - sinh ngày 7/6/2021 đến thời điểm này cháu Nh A chưa đủ 36 tháng tuổi theo Điều 81 luật Hôn nhân và gia đình cho chị Vũ Thị H nuôi dưỡng là hợp tình hợp lý, và có căn cứ pháp luật.

- Chị H yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung một tháng 1.000.000đồng, xét thấy việc nuôi con chung là nghĩa vụ của cả người cha và người mẹ để nuôi con khôn lớn trưởng thành, anh Đ là xã đội viên trong ban chỉ huy quân sự xã, có trợ cấp chức vụ, có lương cố định nên việc cấp dưỡng nuôi con chung của anh Đ cho chị H 1.000.000đồng/tháng là phù hợp so với thu nhập của anh Đ nên cần chấp nhận mức yêu cầu chị H đúng với nhu cầu chi tiêu sinh sống tại địa phương.

[4].Về tài sản chung và khoản nợ: Chị Vũ Thị H không yêu cầu giải quyết,Toà án không xem xét.

[5].Về án phí: Chị Vũ Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Nguyễn Bá Đ phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 điều 144, khoản 4 điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 khoản 3 điều 228 ; Điều 266, 271 khoản 1 điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào Điều 51; 54; 56; khoản 1 Điều 59; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí của tòa án.

Xử;

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Vũ Thị H được ly hôn anh Nguyễn Bá Đ .

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Bá Nh A - giới tính: Nam - sinh ngày 7/6/2021cho chị Vũ Thị H nuôi dưỡng chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi,trưởng thành.

Vì lợi ích mọi mặt của con thì các bên đương sự có quyền xin thay đổi người nuôi con và yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con.

- Anh Nguyễn Bá Đ có nghĩa vụ nộp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Vũ Thị H một tháng 1.000.000đồng/tháng kể từ tháng 4 năm 2022 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành.

3.Về tài sản chung và khoản nợ: Toà án không giải quyết.

4.Về án phí ly hôn: Chị Vũ Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ mà chị Vũ Thị H đã nộp tại chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành theo biên lai thu tiền số 0010892 ngày 27/10/2021. Buộc anh Nguyễn Bá Đ phải chịu nộp 300.000đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả; Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.” 5. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6.Nguyên đơn, bị đơn có mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 29/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về