Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 25/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 25/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 07 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 52/2022/TLST- HNGĐ, ngày 08 tháng 3 năm 2022, về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình - Ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 108/2022/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 110/2022/QĐ-ST ngày 25 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Trúc L, sinh năm 1985;

Địa chỉ: Tổ 14, ấp 7, xã B, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1982;

Địa chỉ: Tổ 38, khóm A, Phường B, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

(Chị L có mặt, anh M vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị Trúc L trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh M kết hôn năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 3, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp ngày 20/3/2019.

Trong thời gian vợ chồng chung sống đã xảy ra những bất đồng ý kiến, thời gian qua dù đã cố gắn nhưng vợ chồng vẫn không có tiếng nói chung. Nay nhận thấy không còn tình cảm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể kéo dài cuộc sống hôn nhân nên chị L yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn M.

- Về con chung: Chị L và anh M có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 22/6/2019, hiện đang sống chung với chị L. Chị L yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị L xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị L xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa, Chị L trình bày, chị L và anh M tự tìm hiểu và đi đến hôn nhân vào năm 2018, nhưng khi cưới nhau thì cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, không có tiếng nói chung, phát sinh nhiều mâu thuẫn, anh M thờ ơ với vợ con không có ý chí làm ăn để xây dựng cuộc sống gia đình, trước khi cưới anh M cũng có đi làm thuê nhưng sau khi vợ chồng cưới nhau, anh M không chịu đi làm mà suốt ngày chỉ tham gia cờ bạc, không chăm sóc gia đình. Khi chị L mang thai đến khi sinh con thì một mình chị L tự lo cho con. Chị L có nhiều lần khuyên can nhưng anh M không thay đổi, nên vợ chồng không thể hàn gắn được, chị L đã rời khỏi nhà anh M ra thuê nhà trọ ở riêng từ tháng 8/2019, vợ chồng ly thân cho đến nay. Thời gian ly thân, anh M cũng không đến thăm nom con chung, không phụ giúp chi phí tiền nuôi dưỡng con chung.

Chị L xác định tình cảm vợ chồng đã không còn, không thể tiếp tục cuộc sống hôn nhân, khi chị L gửi đơn khởi kiện ly hôn thì gia đình chị L và anh M đều biết và cũng không ai có ý kiến. Chị L xác định nếu Tòa án không giải quyết cho chị L ly hôn với anh M, thì chị L cũng không thể về sống chung với anh M được nữa. Mong Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện cho chị L được ly hôn với anh M.

Về con chung: Chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, với căn cứ từ khi sinh con đến nay con đã được 03 tuổi nhưng anh M không lần nào đến thăm con chung. Hiện tại, chị L có công việc và thu nhập ổn định đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

Bị đơn anh Nguyễn Văn M, mặc dù đã nhận trực tiếp các văn bản tố tụng do Tòa án tống đạt nhưng không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, không gửi văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu xin ly hôn, nuôi con của chị L và vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện của chị Lê Thị Trúc L và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con. Bị đơn anh Nguyễn Văn M có địa chỉ cư trú tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Anh Nguyễn Văn M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng anh M vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh M theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh M kết hôn năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 3, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp ngày 20/3/2019 nên hôn nhân giữa chị L và anh M là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Chị L và anh M tự tìm hiểu để đi đến hôn nhân nhưng quá trình chung sống lại không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng đã bắt đầu phát sinh từ khi cưới nhau. Lý do, chị L và anh M không tìm được tiếng nói chung trong nhiều vấn đề của đời sống vợ chồng, anh M thường xuyên cờ bạc không đi làm tạo thu nhập để chăm sóc vợ con và xây dựng gia đình, mặc dù chị L đã khuyên can nhưng anh M vẫn không thay đổi, làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên vợ chồng đã ly thân từ năm 8/2019. Thời gian ly thân, cả chị L và anh M cũng không thiện chí hàn gắn tình cảm với vợ chồng. Chị L xác định đã không còn tình cảm yêu thương đối với anh M nên không thể tiếp tục cuộc sống hôn nhân.

Tại phiên tòa, mặc dù được sự động viên của Hội đồng xét xử, chị L nên cho anh M một cơ hội sửa chữa khuyết điểm cũng như cho chính mình cơ hội để hàn gắn tình cảm vợ chồng, cùng nhau xây dựng cuộc sống gia đình và chăm sóc con chung, để con chung có cả tình thương trọn vẹn của cha và mẹ nhưng chị L vẫn cương quyết yêu cầu xin được ly hôn với anh M và khẳng định không thể hàn gắn được tình cảm với anh Mỹ và mong Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị L ly hôn với anh M.

Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân giữa chị L và anh M đã không còn hạnh phúc, không tìm được tiếng nói chung, xảy ra nhiều mâu thuẫn, anh M không thăm non, chăm sóc con chung, không cùng chị L chia sẽ, thực hiện trách nhiệm là chồng, làm cha trong gia đình, từ việc chăm sóc vợ con cái, đến trách nhiệm cùng xây dựng gia đình hạnh phúc, dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt.

Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xác định mối quan hệ hôn nhân của chị L và anh M đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L, chị L được ly hôn với anh Nguyễn Văn M.

[2.2] Về con chung: Căn cứ vào lời trình bày của chị L và Giấy khai sinh của con chung, xác định chị L và anh M có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 22/6/2019. Hiện tại, con chung đang sống chung với chị L. Sau khi ly hôn, chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, chị L không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi sinh ra con chung đã được sự chăm sóc trực tiếp của chị L, anh M không đến thăm nom, chăm sóc con chung. Chị L xác định, hiện tại chị L có công việc và thu nhập ổn định đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Đồng thời, cháu Ngọc H là bé gái cần được sự chăm sóc, giáo dục của người mẹ để có điều kiện phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh thần nên yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung của chị L là có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị L, chị L được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 22/6/2019.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Anh M không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Trúc L. Chị Lê Thị Trúc L được ly hôn với anh Nguyễn Văn M.

- Về con chung: Chị L và anh M có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 22/6/2019, hiện đang sống chung với chị L. Sau khi ly hôn, chị L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 22/6/2019.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Trúc L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình, được khấu trừ 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005499 ngày 03/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh. Chị L đã nộp xong tiền án phí.

Anh Nguyễn Văn M không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình.

Chị L có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh M có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 - Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

104
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 25/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:25/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về