Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 102/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 102/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 07 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 179/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2021 về Tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 113/2021/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Ngọc H, sinh năm 1972; thường trú: khu phố Đ T, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn C, sinh năm 1966; thường trú:  khu phố Đ T, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Lê Ngọc Hoa trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Ngọc H và ông Nguyễn C sau thời gian tự nguyện tìm hiểu khoảng 01 năm thì tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Di A, huyện D A (nay là phường D A, thành phố D A), tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 210/2002, quyển số 02 cấp ngày 25/9/2002. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống tại số 521 (số cũ 10/28) đường ĐT743A, khu phố Đ T, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương cho đến nay. Vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc đến tháng 9/2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng thường xuyên cãi vã, bất đồng quan điểm sống, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, ông Cường có người phụ nữ khác, không chăm lo kinh tế gia đình. Nay nguyên đơn bà Lê Ngọc H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với bị đơn ông Nguyễn C.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Cao Kỳ A, sinh ngày 07/11/2002 và Nguyễn Ngọc Anh Th, sinh ngày 28/3/2009. Sau khi ly hôn, bà H yêu cầu là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Ngọc Anh Th và không yêu cầu ông C thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với con chung Nguyễn Cao Kỳ A, hiện đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Nguyên đơn bà Lê Ngọc H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Nguyễn C: Tòa án đã triệu tập hợp lệ để cung cấp bản tự khai ngày 24/5/2021, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 14/6/2021; tham gia phiên tòa vào các ngày 19/11/2021 và ngày 07/12/2021 nhưng vắng mặt không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu của bà H và cũng không cung cấp tài liệu chứng cứ cho Tòa án.

- Tại biên bản xác minh nguyên nhân mâu thuẫn giữa bà H và ông C do Tòa án tiến hành ngày 04/6/2021, chính quyền địa phương cung cấp thông tin như sau: Bà Lê Ngọc H và ông Nguyễn C trước khi nộp đơn khởi kiện xin ly hôn tại Tòa án bà H không yêu cầu chính quyền địa phương tổ chức hòa giải cơ sở. Quá trình chung sống thực tế mâu thuẫn giữa hai vợ chồng như thế nào chính quyền địa phương không nắm rõ vì không thấy đại diện khu phố hay địa phương phản ánh hay cung cấp thông tin gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo qui định của pháp luật.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:

Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa sơ thẩm Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật. Bị đơn không chấp hành quy định của pháp luật.

Về hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống chung không hạnh phúc do mâu thuẫn kéo dài, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nguyên đơn yêu cầu ly hôn và yêu cầu giải quyết về con chung đối với bị đơn là có cơ sở chấp nhận. Về tài sản chung và nợ chung nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào các ngày 19/11/2021 và ngày 07/12/2021 nhưng đều vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả các đương sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Năm 2002, bà Lê Ngọc H và ông Nguyễn C tự nguyện tìm hiểu tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn D A, huyện D A (nay là phường D A, thành phố D A), tỉnh Bình Dương, theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 210/2002, quyển số 02 cấp ngày 25/9/2002 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

Xét thấy, mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Nguyên đơn xác định sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 9/2020 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là vợ chồng thường xuyên cãi vã, bất đồng quan điểm sống, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, ông Cường có người phụ nữ khác, không chăm lo kinh tế gia đình. Từ đó dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, không tìm được tiếng nói chung, làm cho không khí gia đình ngột ngạt nên tình cảm của nguyên đơn giành cho bị đơn cũng phai nhạt dần. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập bị đơn đến làm việc, hòa giải nhằm mục đích hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bị đơn không có mặt. Vì vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải đoàn tụ quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng bà H và ông C được. Do, đó nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Tòa án chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Bà Lê Ngọc H và ông Nguyễn C có 02 con chung tên Nguyễn Cao Kỳ A, sinh ngày 07/11/2002 và Nguyễn Ngọc Anh Th, sinh ngày 28/3/2009. Tại đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, bà H yêu cầu là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Ngọc Anh Th. Xét cháu Th là con gái, bà H đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Th đồng thời cháu Thư cũng có nguyện vọng sinh sống cùng với mẹ. Do đó, để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con chung và quyền lợi của người phụ nữ sau khi ly hôn cần giao cháu Nguyễn Ngọc Anh Th cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Lê Ngọc H không yêu cầu ông Nguyễn C phải cấp dưỡng nuôi con chung. Riêng con chung Nguyễn Cao Kỳ A đã trưởng thành nên bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[3] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Bà Lê Ngọc H không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[4] Từ những phân tích nêu trên, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ cở chấp nhận. Đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương là phù hợp.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 144, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 56,81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Ngọc H đối với bị đơn ông Nguyễn C.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Ngọc H được ly hôn với ông Nguyễn C [Theo theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 210/2002, quyển số 02 cấp ngày 25/9/2002 do Ủy ban nhân dân thị trấn D A, huyện D A (nay là phường D A, thành phố D A), tỉnh Bình Dương cấp ngày 25/9/2002].

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Anh Th, sinh ngày 28/3/2009 cho bà Lê Ngọc H trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà H không yêu cầu ông Nguyễn C cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà H và ông C đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Vì lợi ích hợp pháp của con chung, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Bà Lê Ngọc H không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Ngọc H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí về ly hôn được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0049514 ngày 22/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 102/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:102/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về