Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 63/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THỦY, THÀNH PH CN THƠ

BẢN ÁN 63/2023/HNGĐ-ST NGÀY 24/08/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 24 tháng 8 năm 2023, Tòa án nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 90/2023/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2023, về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 420/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn:Dương Huỳnh Thanh S, sinh năm 1985.

Nơi cư trú: Số B N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ;

B đơn: Ông Bùi Văn D, sinh năm 1984.

Nơi đăng ký hộ khẩu: Ấp T, thị trấn R, huyện C, tỉnh Hậu Giang;

Địa chỉ liên hệ: E N, phường A, quận B, thành phố Cần Thơ.

Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Phần trình bày của nguyên đơn theo đơn khởi kiện đề ngày 25/5/2023 và trong quá trình tố tụng như sau:

Bà Dương Huỳnh Thanh S và ông Bùi Văn D tự nguyện tiến đến hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (viết tắt UBND) phường A, quận N, thành phố Cần Thơ năm 2008. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc và có một con chung là Bùi Dương Thế T (nam), sinh ngày 11/4/2009. Thời gian gần đây phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, bản thân bà S đã cho cả hai cơ hội tìm biện pháp hàn gắn nhưng đã không mang lại kết quả tốt đẹp mà cuộc sống hôn nhân trở thành gánh nặng. Bà và ông D đã ly thân hơn hai năm nay. Bà S nhận thấy hôn nhân không hạnh phúc và tình cảm không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông Bùi Văn D.

Về con chung: Giữa bà S và ông D có một con chung là Bùi Dương Thế T (nam), sinh ngày 11/4/2009. Bà S có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà S và ông D không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với ông Bùi Văn D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo công khai chứng cứ và hòa giải cùng giấy triệu tập. Do ông D vắng mặt không lý do tại phiên hòa giải nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải được. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử công khai, vắng mặt bị đơn theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, Nguyên đơn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày, bị đơn vắng mặt không lý do.

Phần phát biểu việc tuân theo pháp luật và giải quyết vụ án của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có ra thông báo thụ lý, thông báo hòa giải, thu thập chứng cứ của bị đơn đúng quy định pháp luật. Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự của phiên tòa dân sự. Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt không lý do. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục:

Giữa bà Dương Huỳnh Thanh S và ông Bùi Văn D tự nguyện tiến đến hôn nhân có đăng ký kết hôn tại UBND phường A, quận N, thành phố Cần Thơ năm 2008. Đồng thời ông D có nơi cư trú tại địa bàn quận B, đây là hôn nhân hợp pháp thuộc ngành Luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Về quan hệ tranh chấp:

Xét hôn nhân giữa bà Dương Huỳnh Thanh S và ông Bùi Văn D đã phát sinh mâu thuẫn mà nguyên nhân theo bà S do bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung trong gia đình, ông D không cố gắng tìm biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Cuộc sống vợ chồng không còn đồng cảm và hạnh phúc như thời gian đầu chung sống.

[3] Hội đồng xét xử nhận thấy, quan hệ hôn nhân là sự gắn kết giữa vợ chồng, phải có sự đồng thuận, tự nguyện từ hai phía, phải có tình yêu thương quan tâm và chăm sóc các thành viên trong gia đình. Bà S nhất quyết ly hôn với ông D vì tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt. Ông D không đến Tòa án nên Hội đồng xét xử không ghi nhận được ý kiến của ông cũng như cho thấy ông không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng duy trì cuộc sống hôn nhân. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy chấp thuận yêu cầu xin ly hôn của bà Dương Huỳnh Thanh S đối với ông Bùi Văn D là có cơ sở.

[4] Về con chung: Giữa bà S và ông D có một con chung là Bùi Dương Thế T (nam), sinh ngày 11/4/2009. Bà S có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, tại phiên tòa bà S không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy hiện bà S đang là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung, bé T còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ. Như vậy để bảo đảm về điều kiện nuôi dưỡng, sự phát triển về tâm sinh lý và quyền lợi cũng như sự ổn định của bé, Hội đồng xét xử quyết định giao bé T cho bà S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Hội đồng xét xử dành quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung cho ông D, không ai được cản trở ông D thực hiện quyền này. Đồng thời bà S không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con đây là sự tự nguyện của đương sự nên chấp thuận. Ông D có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu chứng minh được bà S không nuôi dưỡng con chung tốt, không đảm bảo đủ các điều kiện để bé T phát triển toàn diện.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà S trình bày giữa bà và ông D không có tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Do ông D vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Do đó tách phần yêu cầu về tài sản chung, nợ chung thành vụ kiện khác khi đương sự có yêu cầu và có đủ cơ sở để chứng minh.

[6] Về phía ông D, mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần và thực hiện việc tống đạt, niêm yết Quyết định xét xử vắng mặt theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành nhưng bị đơn vẫn tiếp tục vắng mặt là tự tước đi quyền tự trình bày của mình tại Tòa án. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho người vắng mặt Hội đồng xét xử dành quyền kháng cáo cho ông D theo quy định của pháp luật.

[7] Bà Dương Huỳnh Thanh S phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Dương Huỳnh Thanh S được ly hôn với ông Bùi Văn D.

2. Về con chung: Giao con chung Bùi Dương Thế T (nam), sinh ngày 11/4/2009 cho bà Dương Huỳnh Thanh S trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung cho ông D, không ai được cản trở quyền này.

3. Tài sản chung và nợ chung: Bà S không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi các bên đương sự yêu cầu và có đủ cơ sở để chứng minh. 

4. Về án phí: Bà Dương Huỳnh Thanh S phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm. Chuyển tiền tạm ứng án phí bà S đã nộp theo biên lai thu số 0002210 ngày 30/5/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ thành án phí hôn nhân sơ thẩm.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 24/8/2023). Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kề từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 63/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:63/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thuỷ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về