Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 42/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TNH TIỀN GIANG

BN ÁN 42/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/03/2022 VỀ TRANCHP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 14 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 78/2022/TLST-HNGĐ ngày 15/02/2022 về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số : 60/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07/3/2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị R, sinh năm 1976. Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

* Bị đơn: Anh Hồ Văn Hồng A, sinh năm 1973. Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

(Chị R, anh Hồng A có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 10/01/2022 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị Huỳnh Thị R trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Do mai mối trước chị R và anh Hồng A xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 1997, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A theo giấy đăng ký kết hôn số 111 ngày 19/8/2004. Sau khi cưới vợ chồng sinh sống hạnh phúc đến năm 2018 mâu thuẫn do anh Hồng A có tham gia chơi cờ bạc gây nợ nần dẫn đến bán đất, nên vợ chồng có cãi vã qua lại với nhau, vợ chồng sống ly thân từ 1 tháng 12/2021 đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn nên chị Rở yêu cầu ly hôn với anh Hồng A.

Về con chung: Có 02 con chung tên Hồ Văn Minh T, sinh ngày 18/10/1998 và Hồ Thị Quỳnh T, sinh năm 05/8/2009, hiện cháu T đã thành niên có khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn cháu T chị R yêu cầu nuôi, không yêu cầu anh Hồng A phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 30/12/2021 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn anh Hồ Văn Hồng A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Về thời gian kết hôn có đăng ký kết hôn như chị R trình bày là đúng, trong quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn do trước đây có tham gia chơi cờ bạc gây nợ nần dẫn đến bán đất, nên vợ chồng có cãi vã qua lại với nhau, vợ chồng sống ly thân từ tháng 12/2021 cho đến nay. Do anh Hồng A còn tình cảm với chị R nên không đồng ý ly hôn, mong vợ chồng hàn gắn đoàn tụ.

Về con chung: Có 02 con chung tên Hồ Văn Minh T, sinh ngày 18/10/1998 và Hồ Thị Quỳnh T, sinh năm 05/8/2009, hiện cháu T đã thành niên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn cháu T nếu ly hôn thì anh Hồng A đồng ý giao cho chị R tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng, anh Hồng A không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Do mai mối trước chị R và anh Hồng A xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 1997, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A theo giấy đăng ký kết hôn số 111 ngày 19/8/2004 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi cưới vợ chồng sinh sống hạnh phúc đến năm 2018 mâu thuẫn do anh Hồng A có tham gia chơi cờ bạc gây nợ nần dẫn đến bán đất, nên vợ chồng có cãi vã qua lại với nhau, vợ chồng sống ly thân từ tháng 12/2021 đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn nên chị R yêu cầu ly hôn với anh Hồng A. Bị đơn anh Hồng A không đồng ý ly hôn do còn tình cảm với chị R.

Xét, sau khi chị R và anh Hồng A xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 1997, vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian cho đến năm 2018 thì thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do anh Hồng A chơi cờ bạc gây nợ nần dẫn đến bán đất, nên vợ chồng có cãi vã qua lại với nhau. Anh Hồng A cho rằng vẫn còn tình cảm với chị R, nhưng nguyên nhân vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do anh Hồng A không chăm lo làm ăn để lo gia đình mà ham chơi cờ bạc dẫn đến nợ nần nhiều lần dẫn đến phải bán đất trả nợ, nhưng anh Hồng A không biết thay đổi mà vẫn tiếp tục chơi cờ bạc dù chị R nhiều lần khuyên răng, nên tình cảm vợ chồng không còn. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh Hồng A không đưa ra được giải pháp cụ thể nào để khắc phục và hàn gắn lại mối quan hệ vợ chồng. Mặc dù, Tòa án đã động viên, hòa giải nhưng chị R vẫn kiên quyết yêu cầu ly hôn với anh Hồng A. Từ những tình tiết này, đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử nhận định tình trạng hôn nhân giữa chị R và anh Hồng A đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị R là phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2] Về con chung: Có 02 con chung tên Hồ Văn Minh T, sinh ngày 18/10/1998 và Hồ Thị Quỳnh T, sinh năm 05/8/2009, hiện cháu T đã thành niên có khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn cháu T chị R và anh Hồng A thỏa thuận giao cho chị R tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng. Xét, đây là sự nguyện thỏa thuận giữa chị R và anh Hoàng A không trái pháp luật và đạo đức xã hội và cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu T, nên Hội đồng xét xử ghi nhận phù hợp với quy định tại các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Chị R không yêu cầu anh Hồng A cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[3] Về tài sản và nợ chung: Tự thoả thuận, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị R, căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án nên chị R phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Xử :

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Huỳnh Thị R được ly hôn với anh Hồ Văn Hồng A.

2. Về con chung: Giao con chung tên Hồ Thị Quỳnh T, sinh năm 05/8/2009 cho chị Huỳnh Thị R tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Hồng A không phải cấp dưỡng nuôi con do chị R không có yêu cầu. Anh Hồng A có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản.

3. Về án phí: Chị Huỳnh Thị R phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0009280 ngày 15/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, nên xem như chị R đã nộp xong tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Huỳnh Thị R, anh Hồ Văn Hồng A có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 42/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:42/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về