Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 403/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 403/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 31 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 188/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2021, việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 263/2021/QĐST- HNGĐ ngày 23 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 244/2021/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Bà Lê Thị Đ, sinh năm 1985.

Địa chỉ: ấp VĐ, xã VT, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.

Bà Lê Thị Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2.Bị đơn: Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1985.Vắng mặt. Địa chỉ: ấp HT, xã ĐHC, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*.Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Lê Thị Đ trình bày và có ý kiến như sau:

Về hôn nhân: Giữa bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Văn V, do quen biết và tự tìm hiểu nhau, tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 2008, được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới, hôn nhân lần thứ nhất của cả hai, có đăng ký kết hôn trễ hạn theo giấy chứng nhận kết hôn số: 111, quyển số 01 ngày 13/7/2012 tại Ủy ban nhân dân xã ĐHC, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Cuộc sống vợ chồng ban đầu hạnh phúc nhưng dần về sau phát sinh mâu thuẩn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cự cải, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cả hai không có tiếng nói chung, ông Nguyễn Văn V không quan tâm chăm sóc vợ con mặc dù cả hai đã nhiều lần tìm cách hàn gắn nhưng vẫn không khắc phục được và đã ly thân từ tháng 12 năm 2018 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm của vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Lê Thị Đ yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông Nguyễn Văn V.

Về con chung: Có 02 (hai) con chung chưa thành niên tên Nguyễn Anh T, sinh ngày 08/6/2009 và Nguyễn Bá L, sinh ngày 10/6/2011. Cháu T và cháu L hiện đang sống chung với ông V và ý kiến của cháu T và cháu L đều có nguyện vọng sống chung với ông V. Khi ly hôn bà Lê Thị Đ yêu cầu được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng con chung chưa thành niên tên Nguyễn Anh T, sinh ngày 08/6/2009 và Nguyễn Bá L, sinh ngày 10/6/2011; không yêu cầu ông Nguyễn Văn V phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, do cháu T và cháu L hiện đang sống chung với ông V và ý kiến của cháu T và cháu L đều có nguyện vọng sống chung với ông V; nên bà Lê Thị Đ đồng ý cho ông Nguyễn Văn V được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng con chung chưa thành niên tên Nguyễn Anh T, sinh ngày 08/6/2009 và Nguyễn Bá L, sinh ngày 10/6/2011; bà Lê Thị Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Văn V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*.Bị đơn ông Nguyễn Văn V đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông Nguyễn Văn V không có văn bản thể hiện ý kiến gửi cho Tòa án và không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán cho đến việc diễn biến tại phiên tòa của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh trụng. Tòa án nhân dân huyện Châu Phú nhận định:

[2] Về tố tụng: Phiên tòa được mở lần thứ hai nhưng nguyên đơn bà Lê Thị Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ghi ngày 09/12/2021 và ngày 24/12/2021, với nội dung đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bà Lê Thị Đ. Ông Nguyễn Văn V đã được Tòa án triệu tập dự phiên tòa đúng theo quy định Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nhưng ông Nguyễn Văn V vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Văn V.

[3] Về hôn nhân: Giữa bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Văn V là hôn nhân hợp pháp bởi ông bà có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Xem xét yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị Đ, Hội đồng xét xử nhận thấy trong cuộc sống vợ chồng của ông bà đã không còn hạnh phúc, do một bên không còn tình cảm, đã có khoảng thời gian ly thân, cả hai có những mâu thuẫn mà không thể hàn gắn được do giữa ông bà không có sự cảm thông cho nhau. Trong quá trình Tòa án xem xét giải quyết vụ án, ông Nguyễn Văn V không cung cấp ý kiến và không đến Tòa án tham dự phiên hòa giải, phiên tòa thể hiện chưa có sự quan tâm đối với yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị Đ. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Thị Đ là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, bà Lê Thị Đ được ly hôn với ông Nguyễn Văn V.

[4] Về nuôi con chung: Theo giấy khai sinh của Nguyễn Anh T và Nguyễn Bá L, lời trình bày của bà Lê Thị Đ thì bà và ông Nguyễn Văn V có con chung chưa thành niên tên Nguyễn Anh T, sinh ngày 08/6/2009 và Nguyễn Bá L, sinh ngày 10/6/2011, do ông Nguyễn Văn V đang nuôi dưỡng, chăm sóc. Xét thấy, con chung được ông Nguyễn Văn V giáo dục, chăm sóc, nuôi dưỡng để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển về mọi mặt của cháu, tạo điều kiện cho cháu được ổn định về tâm sinh lý, chỗ ở, sinh hoạt và học tập. Bà Lê Thị Đ cũng đồng ý cho ông Nguyễn Văn V được tiếp tục nuôi con chung là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, ông Nguyễn Văn V được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung chưa thành niên tên Nguyễn Anh T, sinh ngày 08/6/2009 và Nguyễn Bá L, sinh ngày 10/6/2011. Bà Lê Thị Đ có quyền và nghĩa vụ thăm nom con. Ông Nguyễn Văn V và các thành viên trong gia đình của ông Nguyễn Văn V không được cản trở bà Lê Thị Đ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Ông Nguyễn Văn V không có ý kiến về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị Đ trình bày giữa bà và ông Nguyễn Văn V về tài sản chung và nợ chung là không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay do không có mặt của ông Nguyễn Văn V để đối chất làm rõ các mối quan hệ này nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết. Nếu đương sự có tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

[6] Về án phí: Bà Lê Thị Đ là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 143, khoản 4 Điều 147, Điều 179, Điều 186, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 và khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Văn V.

Giấy chứng nhận kết hôn số: 111, quyển số 01 ngày 13/7/2012 tại Ủy ban nhân dân xã ĐHC, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2.Về nuôi con chung: Có 02 (hai) con chung chưa thành niên tên Nguyễn Anh T, sinh ngày 08/6/2009 và Nguyễn Bá L, sinh ngày 10/6/2011.

2.1.Giao con chung chưa thành niên tên Nguyễn Anh T, sinh ngày 08/6/2009 và Nguyễn Bá L, sinh ngày 10/6/2011 cho ông Nguyễn Văn V được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng. Bà Lê Thị Đ có quyền và nghĩa vụ thăm nom con. Ông Nguyễn Văn V và các thành viên trong gia đình của ông Nguyễn Văn V không được cản trở bà Lê Thị Đ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2.2. Ông Nguyễn Văn V không có ý kiến về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

3.Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị Đ trình bày tài sản chung và nợ chung là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

4.Về án phí: Bà Lê Thị Đ phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0008885 ngày 22 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Bà Lê Thị Đ đã nộp đủ.

5.Về quyền kháng cáo: Bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Văn V vắng mặt, thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 403/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:403/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về