Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 35/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 35/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 17 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 205/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2021, về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 27/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 27 tháng 5 năm 2022, giữa:

-Nguyên đơn: Bà Lê Thị Ngọc N, sinh năm: 1998. Địa chỉ: Tổ 23 ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

-Bị đơn: Ông Ngô Tấn T, sinh năm: 1985.

Địa chỉ: Số nhà 378/4, ấp X, xã T, huyện C, tỉnh Long An.

(Bà N có mặt, ông T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 07 tháng 12 năm 2021 và trong quá trình xét xử, bà Lê Thị Ngọc N là nguyên đơn trình bày: Bà và ông Ngô Tấn T được tổ chức lễ cưới năm 2017 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Long An vào ngày 18/4/2017.

Sau ngày cưới vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do ông T sống không chung thuỷ, chung sống với người phụ nữ khác bên ngoài nên hai người không còn chung sống với nhau từ cuối năm 2018 cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông Ngô Tấn T.

Về nuôi con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Lê Gia B, sinh ngày 14/12/2017, hiện nay con chung đang sống với bà, khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục giữ nuôi con chung, bà không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà cam kết vợ chồng không có nợ chung.

Ông Ngô Tấn T là bị đơn đã được triệp tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do nên không có lời trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bà Lê Thị Ngọc N xin ly hôn với ông Ngô Tấn T, việc tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nên Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ lý, giải quyết. Ông Ngô Tấn T đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không lý do nên cần áp dụng Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt đối với ông Ngô Tấn T.

[2] Bà Lê Thị Ngọc N và ông Ngô Tấn T được tổ chức lễ cưới năm 2017 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Long An vào ngày 18/4/2017, nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

[3] Qua lời khai trình của bà Lê Thị Ngọc N và các chứng cứ nguyên đơn xuất trình, Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm vợ chồng giữa bà N, ông T đã phát sinh mâu thuẫn, hai người không còn chung sống với nhau từ cuối năm 2018 cho đến nay, nhưng không hàn gắn đoàn tụ lại được. Bà N xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn với ông T. Ông T đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt, không hợp tác giải quyết việc hôn nhân của các đương sự. Xét thấy giữa hai đương sự đã phát sinh mâu thuẫn, nhưng cả hai không có thiện chí hàn gắn lại, đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần cho bà Lê Thị Ngọc N được ly hôn với ông Ngô Tấn T, theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về nuôi con chung: Hai đương sự có với nhau một người con chung tên Lê Gia B, sinh ngày 14/12/2017, hiện nay con chung do bà N đang trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà N yêu cầu được tiếp tục giữ nuôi con chung, bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Ông T vắng mặt nên không có ý kiến về nuôi con chung và việc cấp dưỡng nuôi con. Do đó cần chấp nhận theo yêu cầu nuôi con khi ly hôn của bà N. Ông T có quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung các đương sự được quyền xin thay đổi tình trạng nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con, theo quy định tại các Điều 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Về tài sản chung: Bà N khai trình không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[6] Về nợ chung: Bà N cam kết không có nợ chung, nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bà Lê Thị Ngọc N phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Ông Ngô Tấn T không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 227, 228, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho bà Lê Thị Ngọc N được ly hôn với ông Ngô Tấn T.

2. Về nuôi con chung: Khi ly hôn, bà Lê Thị Ngọc N được giao giữ nuôi con chung tên Lê Gia B, sinh ngày 14/12/2017, đến tuổi trưởng thành. Ông Ngô Tấn T không phải cấp dưỡng nuôi con, được quyền đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung các đương sự được quyền xin thay đổi tình trạng nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Bà Lê Thị Ngọc N phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Cho chuyển số tiền tạm ứng án phí bà N đã nộp là 300.000 đồng sang tiền án phí phải thi hành, theo biên lai thu số 0007652 ngày 20 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

82
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 35/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:35/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về