TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SA ĐÉC, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Trong các ngày 19 tháng 5 năm 2021, ngày 09 và ngày 29 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp; xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 18/2021/TLST-HNGĐ, ngày 14 tháng 01 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung sau ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 26 tháng 4 năm 2021, quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 19 tháng 5 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số: 21/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 09 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị A - sinh năm: 1983.
Địa chỉ: số 268A, khóm H, Phường T, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp.
- Bị đơn: Anh M - sinh năm: 1979.
Địa chỉ: số 9/4, khóm H, Phường T, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp.
Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Quá trình tham gia tố tụng tại tòa án, nguyên đơn là chị Lê Thị Hoàng A trình bày:
- Về hôn nhân: Chị Hoàng Anh và anh M tự quen biết và tìm hiểu nhau, không nhớ thời gian nào, nhưng bắt đầu sống chung như vợ chồng vào năm 2000, không có tổ chức đám cưới do gia đình chị Hoàng A không đồng ý, có đăng ký kết hôn tại UBND Phường 4, thành phố Sa Đéc vào ngày 04/9/2001.
Thời gian đầu, vợ chồng chung sống với nhau rất hạnh phúc, đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị Hoàng A phát hiện anh M có tình cảm với người phụ nữ khác bên ngoài, anh M cũng thừa nhận; sau đó vợ chồng thường xuyên gây gổ, cãi nhau; anh M thường xuyên bỏ nhà đi khoảng 02 - 03 ngày mới về nhà một lần (kéo dài trong 05 - 06 tháng). Sau 06 tháng thì anh M trở về chung sống với chị Hoàng A. Đến năm 2019, sau khi sinh cháu Quỳnh Anh xong thì chị Hoàng A lại tiếp tục phát hiện anh M có quan hệ tình cảm với một người phụ nữ khác ở thành phố Hồ Chí Minh; chị Hoàng A và các con đã khuyên can nhiều lần nhưng anh M vẫn không sửa đổi; cuộc sống vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Đến tháng 10 năm 2020 thì vợ chồng sống ly thân, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau.
Nay chị Hoàng Anh nhận thấy cuộc sống hôn nhân với anh M không có hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được; chị Hoàng A yêu cầu được ly hôn anh Lê Văn M.
- Về nuôi con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Quá trình chung sống, có 04 con chung tên Lê Ngọc Anh Thư - sinh ngày: 01/5/2002, Lê Anh Tuấn - sinh ngày: 14/8/2006, Lê Anh Khoa - sinh ngày: 23/6/2011 và Lê Ngọc Quỳnh A- sinh ngày: 29/12/2019 (hiện các con đang sống với chị Hoàng A và anh M). Khi ly hôn, chị Hoàng A yêu cầu được quyền nuôi 03 con chung tên Lê Anh Tuấn, Lê Anh Khoa và Lê Ngọc Quỳnh A, chị Hoàng A không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi 03 con chung sau ly hôn. Đối với con chung tên Lê Ngọc Anh Thư đã thành niên, nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
- Về chia tài sản chung và nợ chung: Chị Hoàng Anh xác định là không có, không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Quá trình tham gia tố tụng tại tòa án, bị đơn là anh Lê Văn M vắng mặt không lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến: Mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật nhưng anh M vẫn không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng A. Đồng thời, Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập cho anh M nhiều lần nhưng anh M vẫn không đến Tòa án để tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và không tham gia phiên tòa theo quy định.
Quá trình tham gia tố tụng tại tòa án, con của chị Hoàng A và anh M là cháu Lê Anh Tuấn và Lê Anh Khoa trình bày: Trường hợp cha mẹ ly hôn, không còn sống chung với nhau nữa thì cả hai cháu đều có nguyện vọng được sống chung với mẹ là chị Lê Thị Hoàng A.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử và tại phiên tòa hôm nay; Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa cũng như các đương sự đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; riêng bị đơn là anh Lê Văn M không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Đại diện Viện kiểm sát thống nhất với trình tự thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
- Về Hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lê Thị Hoàng Anh.
- Về nuôi con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên giao cháu Lê Anh Tuấn - sinh ngày: 14/8/2006, Lê Anh Khoa - sinh ngày: 23/6/2011 và Lê Ngọc Quỳnh A - sinh ngày: 29/12/2019 (hiện các con đang sống với chị Hoàng A và anh M) cho chị Hoàng A được quyền nuôi dưỡng 03 con chung sau ly hôn. Riêng đối với cháu Lê Ngọc Anh Thư - sinh năm: 2002, đã thành niên nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
- Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị Hoàng A không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi 03 con chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Anh M có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom 03 con chung, không ai được cản trở.
- Về chia tài sản chung và nợ chung: Do chị Hoàng A xác định là không có, không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
- Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn là chị Lê Thị Hoàng A khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Lê Văn M là loại vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Quá trình tham gia tố tụng: Nguyên đơn là chị Lê Thị Hoàng A có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Lê Văn M đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[2] Về nội dung, Hội đồng xét xử xét thấy:
- Về hôn nhân: Chị Hoàng A và anh M chung sống vợ chồng từ năm 2000, trên cơ sở tự nguyện, không có tổ chức đám cưới nhưng có đăng ký kết hôn vào ngày 04/9/2001 tại UBND Phường 4, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị Hoàng Anh và anh M được xác định là hôn nhân hợp pháp.
Tuy nhiên, trong quá trình chung sống giữa chị Hoàng A và anh M đã phát sinh nhiều mâu thuẫn; nguyên nhân là do anh M có quan hệ tình cảm với nhiều người phụ nữ khác bên ngoài; chị Hoàng Anh và các con cũng đã nhiều lần khuyên can nhưng anh M không ý thức được, không chịu sửa đổi. Từ đó, vợ chồng thường xuyên cự cãi, tình cảm ngày càng bị tổn thương, rạn nứt, không thể hàn gắn. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 10/2020 đến nay.
Về phía anh M: Quá trình tham gia tố tụng, từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử, anh M đã được Tòa án tống đạt, niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh M vẫn không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Anh, không đến tham dự các buổi hòa giải cũng như phiên tòa hôm nay. Như vậy, anh M đã từ chối các quyền và nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định. Bản thân anh M cũng không mong muốn hàn gắn tình cảm với chị Hoàng Anh nên đã không đến Tòa án để tham gia hòa giải, không cung cấp tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được…”.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Hoàng Anh và anh M đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không có sự thương yêu, tin tưởng và quan tâm lẫn nhau. Nếu chị Hoàng Anh và anh M đoàn tụ tiếp tục chung sống vợ chồng thì cũng không có hạnh phúc. Do đó, xét thấy việc chị Hoàng Anh yêu cầu được ly hôn anh M là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
- Về nuôi con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Khi ly hôn, chị Hoàng A có yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi 03 con chung tên Lê Anh Tuấn - sinh ngày: 14/8/2006, Lê Anh Khoa - sinh ngày: 23/6/2011 và Lê Ngọc Quỳnh A - sinh ngày: 29/12/2019 (hiện các con đang sống với chị Hoàng A và anh M). Chị Hoàng A không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi 03 con chung sau ly hôn. Riêng đối với con chung tên Lê Ngọc Anh Thư - sinh năm: 2002, đã thành niên, nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Tại khoản 1, khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, ...
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.
Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu Lê Ngọc Anh Thư - sinh năm: 2002, đã thành niên nên nên Hội đồng xét xử không xét giải quyết. Riêng các cháu Anh Tuấn, Anh Khoa và cháu Quỳnh Anh hiện đang có cuộc sống ổn định với chị Hoàng Anh. Hơn nữa, cháu Quỳnh Anh sinh năm 2019, hiện còn quá nhỏ, rất cần sự chăm sóc, nuôi dạy của người mẹ nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho cháu. Vì vậy, để đảm bảo cho các cháu có cuộc sống ổn định và phát triển tốt về tâm sinh lý; Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao 03 cháu Anh Tuấn, Anh Khoa và cháu Quỳnh Anh cho chị Hoàng Anh được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 03 con chung sau khi ly hôn là phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với nguyện vọng của các cháu (Anh Tuấn, Anh Khoa) và bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của các cháu trong sinh hoạt, học tập. Anh M được quyền tới lui thăm nom các con chung, không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
Tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở”.
- Về chia tài sản chung và nợ chung: Do chị Hoàng A xác định là không có, không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết; nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Hoàng A phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn) theo quy định của pháp luật.
[4] Đối với ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 147 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên Xử:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Hoàng A. Cho chị Lê Thị Hoàng A ly hôn anh Lê Văn M.
2. Về nuôi con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lê Thị Hoàng A được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 03 con chung tên Lê Anh Tuấn - sinh ngày: 14/8/2006, Lê Anh Khoa - sinh ngày: 23/6/2011 và Lê Ngọc Quỳnh A - sinh ngày: 29/12/2019 (hiện các con đang sống với chị Hoàng A và anh M). Chị Hoàng A không yêu cầu anh Lê Văn M cấp dưỡng nuôi 03 con chung sau ly hôn.
- Buộc anh Lê Văn M có trách nhiệm giao 03 con chung tên Lê Anh Tuấn - sinh ngày: 14/8/2006, Lê Anh Khoa - sinh ngày: 23/6/2011 và Lê Ngọc Quỳnh A - sinh ngày: 29/12/2019 cho chị Lê Thị Hoàng A nuôi dưỡng.
- Anh Lê Văn M có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom 03 con chung, không ai được cản trở.
3. Về chia tài sản chung và nợ chung: Tòa án không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Chị Lê Thị Hoàng A nộp 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn). Số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng, chị Hoàng A đã nộp ngày 14/01/2021 theo biên lai thu số: 0008635 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sa Đéc được khấu trừ toàn bộ án phí phải nộp.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Chị Lê Thị Hoàng A và anh Lê Văn M vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo luật định./.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 29/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 29/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sa Đéc - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về