TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ M, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 194/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 04 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ M, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 848/2020/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2020 về việc“Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2021/QĐ-ST ngày 04 tháng 3 năm 2021, và:
Quyết định hoãn phiên tòa sơ thẩm số 156/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2021;
Quyết định hoãn phiên tòa sơ thẩm số 216/2021/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2021;
Quyết định hoãn phiên tòa sơ thẩm số 293/2021/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1990; nơi cư trú: ấp Trung Thạnh, thị trấn Phú M, huyện Phú T, tỉnh An Giang. Địa chỉ liên lạc: Tổ 13, đường U, phường Đ Xuyên, thành phố Long X, tỉnh An Giang (Có mặt).
Bị đơn: Chị Lê Thị Kiều L, sinh năm 1990; nơi cư trú: ấp M, xã Mỹ Hội Đ, huyện Chợ M, tỉnh An Giang, (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Nguyễn Văn P trình bày:
- Về hôn nhân: anh P quen biết chị Lê Thị Kiều L, cùng tìm hiểu, tiến đến hôn nhân; anh, chị thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo đúng quy định pháp luật vào ngày 21 tháng 11 năm 2014 tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hội Đ, huyện Chợ M. Thời gian đầu, vợ chồng sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẩn, do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, từ thời điểm đó anh P không còn sống cùng với chị L đã ly thân khoảng 01 năm nay. Nay thấy tình cảm không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên anh P xin ly hôn với chị Lê Thị Kiều L.
- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung Nguyễn Minh Hoàng, sinh ngày 13/11/2014 và Nguyễn Minh Hảo, sinh ngày 26/5/2019, các cháu đang sống cùng chị L. Sau khi ly hôn, anh đồng ý để chị L tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung, không cấp dưỡng nuôi con.
- Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: tự th a thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp hòa giải để động viên các bên có thể giải quyết các bất đồng quan điểm, hàn gắn đoàn tụ với nhau nhưng bị đơn không có mặt theo giấy triệu tập, không có ý kiến phản hồi bằng văn bản về yêu cầu xin ly hôn của anh P, nên không thể tiến hành hòa giải được.
Tại Biên bản xác minh vào ngày 11 tháng 02 năm 2021, được Công an xã Mỹ Hội Đ cung cấp, đương sự Lê Thị Kiều L, sinh năm 1990, hiện vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú cùng với mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Đổi Em tại ấp Mỹ Hội, xã Mỹ Hội Đ, huyện Chợ M. Tòa án tiến hành làm việc với bà Đổi Em, bà Đổi Em cho rằng chị L vẫn còn đăng ký hộ khẩu cùng bà, nhưng đi làm, thỉnh thoảng có về thăm nhà; việc anh P xin ly hôn với chị L thì đây là việc riêng của vợ chồng L, bà không có trách nhiệm gì, không đồng ý ký tên vào biên bản.
Tại phiên tòa, anh Nguyễn Văn P vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin được ly hôn với chị Lê Thị Kiều L; chị L vắng mặt. Các bên không thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ M, tỉnh An Giang phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, đương sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn tuy được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vụ án.
- Ý kiến về nội dung:
+ Về hôn nhân: anh Nguyễn Văn P và bà Lê Thị Kiều L do mai mối và tiến tới hôn nhân năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hội Đ ngày 21/11/2014 là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng sống hạnh phúc đến giữa năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên thường xuyên cự cãi và tính tình không hợp, sống chung không có tình cảm nên ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Quá trình ly thân, cả hai không tạo điều kiện hàn gắn, không tới lui thăm nhau. Mặt khác, bà L vắng mặt, không có ý kiến phản hồi trong quá trình giải quyết vụ án, thể hiện mâu thuẫn giữa anh P, chị L đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu tiếp tục sống chung sẽ không hạnh phúc. Do đó, anh P yêu cầu ly hôn với chị L là phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
+ Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Minh Hoàng, sinh ngày 13/11/2014 và Nguyễn Minh Hảo, sinh ngày 26/5/2019, Hiện 02 cháu Hoàng và Hảo đang sống với chị L. Khi ly thân đến nay, 02 cháu Hoàng và Hảo sống với chị L vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Mặt khác, anh P đồng ý để bà L chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung, chị L không có ý kiến phản hồi về việc nuôi con, cấp dưỡng nuôi con. Để đảm bảo ổn định cuộc sống 02 cháu Hoàng và Hảo nên tiếp tục giao 02 cháu cho chị L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, chị L không yêu cầu cấp dưỡng nên không đề cập xem xét.
+ Về tài sản chung, nợ chung: tự th a thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xem xét:
- Chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Nguyễn Văn P đối với chị Lê Thị Kiều L.
- Chị Lê Thị Kiều L được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung tên Nguyễn Minh Hoàng, sinh ngày 13/11/2014 và Nguyễn Minh Hảo, sinh ngày 26/5/2019. Anh Nguyễn Văn P không phải cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đương sự. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về quan hệ tranh chấp: nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn được xác định là tranh chấp về“Ly hôn, nuôi con chung” quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: bị đơn Lê Thị Kiều L, sinh năm 1990, nơi cư trú tại xã Mỹ Hội Đ, huyện Chợ M, tỉnh An Giang. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện Chợ M, tỉnh An Giang là đúng quy định tại Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự: bị đơn Lê Thị Kiều L tuy được triệu tập hợp lệ nhiều lần đến phiên tòa nhưng đều vắng mặt không rõ lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về quan hệ hôn nhân:
[2.1] Về tính hợp pháp của hôn nhân: Anh Nguyễn Văn P và chị Lê Thị Kiều L do mai mối và tiến tới hôn nhân năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hội Đ ngày 21/11/2014 là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
[2.2] Về tình trạng hôn nhân: sau thời điểm kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh nhiều mâu thuẩn do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cự cãi; vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2018 đến nay. Quá trình ly thân, cả hai không tạo điều kiện hàn gắn, không liên lạc qua lại, không còn quan tâm đến nhau. Mặt khác, chị L vắng mặt, không có ý kiến phản hồi trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, anh P xác định mâu thuẩn, khoảng cách tình cảm khó có thể hàn gắn, kiên quyết giữ yêu cầu ly hôn với chị L cho thấy mâu thuẫn giữa anh P và chị L đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, việc duy trì mối quan hệ hôn nhân sẽ không hạnh phúc. Do đó, anh P yêu cầu ly hôn với chị L là có căn cứ, phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3] Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Minh Hoàng, sinh ngày 13/11/2014 và Nguyễn Minh Hảo, sinh ngày 26/5/2019. Hiện 02 cháu Hoàng và Hảo đang sống với chị L. Từ khi ly thân đến nay, 02 cháu Hoàng và Hảo sống với chị L vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Mặt khác, anh P đồng ý để chị L chăm sóc 02 con chung, chị L không có ý kiến phản hồi về quyền nuôi con và cấp dưỡng.
Với những điều kiện nêu trên, việc giao con chưa thành niên cho vợ hoặc chồng nuôi dưỡng cần xem xét yếu tố khách quan, tạo điều kiện để cháu phát triển về mọi mặt. Các cháu Minh Hoàng, Minh Hảo đang sống chung với chị L vẫn phát triển bình thường về thể chất, tinh thần, nên cần ổn định cuộc sống, ổn định tâm lý của cháu, tiếp tục giao cháu cho chị L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Do các đương sự không có ý kiến, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên không xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản, nợ chung: không yêu cầu, Tòa án không đặt ra xem xét.
[5] Về án phí: Anh Nguyễn Văn P phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, khoản 2 Điều 227, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn P. Cho anh Nguyễn Văn P được ly hôn với chị Lê Thị Kiều L.
Giấy chứng nhận kết hôn số 296, do Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hội Đ, huyện Chợ M cấp ngày 21/11/2014 cho Nguyễn Văn P với chị Lê Thị Kiều L, không còn giá trị pháp lý.
2. Về con chung: Giao 02 cháu tên Nguyễn Minh Hoàng, sinh ngày 13/11/2014 và Nguyễn Minh Hảo, sinh ngày 26/5/2019 cho chị Lê Thị Kiều L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Văn P không cấp dưỡng nuôi con.
Không bên nào được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu, nên không đặt ra xem xét.
4. Về án phí: Anh Nguyễn Văn P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm. Anh Nguyễn Văn P đã nộp đủ theo biên lai thu tiền số 0013777 ngày 28/10/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ M, tỉnh An Giang.
5. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn P được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Chị Lê Thị Kiều L được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền th a thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 luật thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 194/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 194/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 04/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về