Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 06/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 19 tháng 7 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 35/2021/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Đinh Thị C, sinh năm 1993;

Nơi cư trú: Thôn X, xã M, huyện H, tỉnh Quảng Ninh; Có mặt tại phiên tòa;

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1993;

Nơi cư trú: Thôn X, xã M, huyện H,tỉnh Quảng Ninh; Vắng mặt tại phiên tòa;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 05 tháng 01 năm 2021, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đinh Thị C trình bày: Chị và anh Phạm Văn Đ trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện H, tỉnh Quảng Ninh vào năm 2016. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống tại nhà anh Đ ở Thôn X, xã M, huyện H. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 10/2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên xảy ra cãi vã, anh Đ mải chơi bời không lo làm ăn, không quan tâm gia đình, vợ con. Hai bên gia đình đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh Đ không thay đổi. Hiện tại vợ chồng đã sống ly thân. Chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng hàn gắn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Văn Đ.

Về con chung: Quá trình chung sống, chị và anh Đ có 01 con chung là Phạm Quang Đ, sinh ngày 06/6/2016. Tại đơn khởi kiện, chị C đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được nuôi con chung đến khi thành niên (đủ 18 tuổi), yêu cầu anh Đ cấp dưỡng số tiền 2.000.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, chị C thay đổi quan điểm, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và khoản nợ chung: Chị và anh Đ không có tài sản chung, không có khoản nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Phạm Văn Đ: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện H đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đồng thời yêu cầu anh Đ cung cấp thông tin về tình trạng hôn nhân, quan điểm trong việc nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, anh Đ không đến Tòa án cũng như không có bất kỳ ý kiến phản hồi nào về các yêu cầu của nguyên đơn.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện H đã tiến hành xác minh tại Thôn X, xã M, huyện H về tình trạng hôn nhân của chị C, anh Đ và được bà Bùi Thị S – Trưởng Thôn X, xã M cung cấp thông tin: Chị C và anh Đ sau khi kết hôn chung sống tại nhà anh Đ ở Thôn X, xã M, huyện H từ năm 2016. Đến năm 2020, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, trục trặc, chị C đã bỏ về nhà ngoại ở xã Q, huyện H. Giáp Tết Nguyên đán 2021 chị C quay về, đến thời gian gần đây lại phát sinh mâu thuẫn và hai bên tiếp tục sống ly thân (bút lục số 32).

Tại phiên tòa chị Đinh Thị C vẫn giữ nguyên yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Phạm Văn Đ và nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung đến tuổi thành niên. Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản và khoản nợ chung. Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H phát biểu quan điểm:

- Về trình tự, quá trình giải quyết vụ án đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Thông báo thụ lý, Kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải đúng pháp luật. Tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tiến hành đúng thủ tục tố tụng. Nguyên đơn về cơ bản đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật. Bị đơn không tham gia phiên họp, phiên tòa là chưa thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị đơn quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Qua xem xét đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ kết hợp với việc hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa, đối chiếu với các quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình, quan điểm của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Đinh Thị C khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với anh Phạm Văn Đ. Anh Đ có hộ khẩu thường trú và hiện tại đang cư trú tại Thôn X, xã M, huyện H, tỉnh Quảng Ninh. Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp về hôn nhân gia đình; thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Ninh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn anh Phạm Văn Đ đã được triệu tập hợp lệ hai lần, tuy nhiên vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị C về hôn nhân: Chị C và anh Đ tự nguyện sống chung và đã đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 20 đăng ký ngày 12/5/2016 do Ủy ban nhân dân xã M, huyện H, tỉnh Quảng Ninh cấp, nên hôn nhân giữa chị C và anh Đ là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình. Xét thấy, mặc dù trong quá trình giải quyết, anh Đ không tham gia tố tụng và không có quan điểm về yêu cầu xin ly hôn của chị C. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị C xác định không còn tình cảm gì với anh Đ, hai bên đã sóng ly thân và chị C cương quyết ly hôn. Kết quả xác minh tại nơi cư trú cũng cho thấy chị C và anh Đ hiện đã sống ly thân. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn giữa chị C và anh Đ là có thật, quan hệ hôn nhân của hai bên đã lâm vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét thấy, việc chị C cương quyết ly hôn với anh Đ là có cơ sở, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Trong thời gian chung sống, chị C và anh Đ có 01 con chung là Phạm Quang Đ, sinh ngày 06/6/2016. Tại phiên tòa, chị C trình bày: Từ khi kết hôn đến khi sinh con, anh Đ không quan tâm nhiều đến con, mọi việc chăm sóc con nhỏ đều do chị đảm nhiệm. Đến nay, cháu Đạt còn nhỏ, cần có sự chăm sóc của người mẹ nên chị mong muốn được nuôi dưỡng cháu Đạt đến tuổi thành niên và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Về vấn đề này, Hội đồng xét xử nhận thấy: Anh Đ mặc dù được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng không tham gia tố tụng tại Tòa án, không thể hiện quan điểm về việc nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, hiện tại chị C đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đạt và có đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu Đạt được phát triển toàn diện về mọi mặt. Để bảo vệ và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ chưa thành niên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị C để chị được nuôi dưỡng cháu Đạt đến tuổi thành niên là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về tài sản chung và khoản nợ chung: Chị C không đề nghị giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết, dành cho hai bên đương sự quyền khởi kiện vụ án dân sự khi một trong hai bên có yêu cầu.

[6] Về án phí: Chị Đinh Thị C phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, khoản 1, khoản 3 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị C về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn với anh Phạm Văn Đ.

1/. Về hôn nhân: Chị Đinh Thị C được ly hôn với anh Phạm Văn Đ.

2./ Về con chung: Chị Đinh Thị C được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Quang Đ, sinh ngày 06/6/2016 kể từ tháng 7/2021 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Phạm Văn Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi thấy cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3/. Về án phí: Chị Đinh Thị C phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chị C đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0006978 ngày 12/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Quảng Ninh.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 06/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hà - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về