Bản án về tranh chấp ly hôn giữa chị Bùi Thị Thúy L và anh Bùi Văn L (chồng công việc không ổn định, đi làm ăn xa quê) số 18/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA CHỊ BÙI THỊ THÚY L VÀ ANH BÙI VĂN L

Ngày 18 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 26/2022/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2022 về tranh chấp Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12A/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14A/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 28 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bùi Thị Thúy L, sinh năm 1998; Nơi cư trú: xóm T, xã V, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Bùi Văn L, sinh năm 1996; Nơi cư trú: Phố C, thị trấn V, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, nguyên đơn là chị Bùi Thị Thúy L trình bày: chị và anh Bùi Văn L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L (nay là sát nhập thành thị trấn V), huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình ngày 12/4/2017. Cuộc sống chung sau khi kết hôn giữa hai vợ chồng ban đầu có hạnh phúc. Do kinh tế gia đình khó khăn nên vợ chồng phải đi làm ăn xa mỗi người sống và làm việc ở một nơi khác nhau. Được một thời gian sau mâu thuẫn vợ chồng nảy sinh vì nghị ngờ sự chung thủy; anh L cho rằng chị L có biểu hiện ngoại tình nhưng không có căn cứ cụ thể. Chị L đã giải thích và hòa giải vợ chồng nhưng không được ngược lại chị L cho rằng anh L sống thiếu trách nhiệm với gia đình, vợ con. Xuất phát từ những mâu thuẫn trên dẫn đến đời sống chung vợ chồng không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng dẫn đến phải sống ly thân nhau. Trong thời gian sống ly thân, vợ chồng không liên lạc, không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị L nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn yêu thương nhau nữa, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Văn L. Về con chung: chị L và anh L có 01 con chung là Bùi Trung H, sinh ngày 23/8/2017. Hiện nay cháu Bùi Trung H đang sống chung cùng với chị L. Khi ly hôn, chị L có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Bùi Trung H và chưa có yêu cầu anh L đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: chị L trình bày là không có.

Về phía anh Bùi Văn L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không có mặt mà không có lý do chính đáng. Tòa án đã xác minh địa chỉ nơi cư trú của anh Bùi Văn L thể hiện anh Bùi Văn L có địa chỉ rõ ràng; có đăng ký nhân khẩu thường trú tại địa chỉ chị Bùi Thị Thúy L đã cung cấp cho Tòa án nhưng thường xuyên vắng mặt tại nơi đăng ký nhân khẩu thường trú, không ở một địa chỉ ổn định nên không lấy được ý kiến của anh Bùi Văn L. Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xem xét.

Kết quả Tòa án xác minh, thể hiện: chị Bùi Thị Thúy L và anh Bùi Văn L hiện sống ly thân nhau; anh Bùi Văn L thường xuyên có mặt tại nơi cư trú do đi làm ăn xa, không ở một nơi ổn định. Tình cảm vợ chồng anh L chị L có mâu thuẫn trầm trọng. Về con chung, tài sản chung và nợ chung đúng như chị Bùi Thị Thúy L đã khai.

Tại phiên tòa, nguyên đơn Bùi Thị Thúy L giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình về ly hôn, quyền và nghĩa vụ nuôi con chung sau ly hôn.

Phía đại diện Viện kiểm sát nhận định về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự khi giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi vụ án được đưa ra xét xử. Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Người tham gia tố tụng là nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng. Đối với bị đơn có địa chỉ cư trú rõ ràng, đã được Tòa án thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng vẫn không tham gia tố tụng. Do vậy, Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: thấy rằng quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Thị Thúy L và anh Bùi Văn L đã có mâu thuẫn trầm trọng; đã sống ly thân thời gian dài và vợ chồng không còn quan tâm đến nhau; không còn tình cảm vợ chồng; mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử quyết định cho ly hôn. Về quyền, nghĩa vụ đối với con chung: Qua các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa nhận thấy yêu cầu về nuôi con của chị L là chính đáng và có căn cứ. Bởi lẽ cháu Bùi Trung H tuổi còn nhỏ cần được sợ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục nhưng hiện tại anh L thường xuyên vắng nhà nên cần giao cháu cho mẹ là chị L nuôi dưỡng là hợp tình hợp lý và phù hợp quy định pháp luật. Về tài sản chung: không có yêu cầu nên đề nghị HĐXX không đề cập xem xét giải quyết. Về công nợ chung: Không có nên đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bị đơn là anh Bùi Văn L không có mặt tại Tòa án mà không có lý do chính đáng. Tòa án đã xác minh địa chỉ của anh L đúng như địa chỉ mà nguyên đơn đã cung cấp. Tòa án đã tiến hành cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng theo đúng quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 172; khoản 3, khoản 5 Điều 177 và Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự cho anh L. Do anh L đã được triệu hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do nên vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh L đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa lần thứ nhất nhưng vẫn cố tình vắng mặt nên Tòa án hoãn phiên tòa là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh L đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh L theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Thị Thúy L và anh Bùi Văn L khi kết hôn là tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định, không vi phạm về độ tuổi cũng như những quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn. Do vậy, hôn nhân giữa chị L và anh L được xác định là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống sau khi kết hôn giữa chị L và anh L có xảy ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn phát sinh do vợ chống bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng nghi ngờ nhau có ngoại tình, không trung thủy, mất niềm tin vào nhau; mâu thuẫn ngày càng trầm trọng dẫn đến vợ chồng đã sống ly thân nhau. Quá trình sống ly thân chị L, anh L không còn quan tâm mà bỏ mặc ai muốn sống thế nào cũng được. Như vậy, chị L và anh L đã không còn thương yêu, tình nghĩa vợ chồng không còn, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; đã vi phạm Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị Luân là có căn cứ, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Xác nhận chị Bùi Thị Thúy L và anh Bùi Văn L có 01 con chung là Bùi Trung H, sinh ngày 23/8/2017. Hiện tại cháu Bùi Trung H đang sống cùng chị L. Khi ly hôn, chị L có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu H. Xét điều kiện nuôi con của cả hai bên thấy rằng: hiện tại chị L đang làm công nhân tại thị trấn V, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; có công việc, thu nhập và chỗ ở ổn định tại xóm T, xã V, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; chị L có điều kiện về kinh tế, chỗ ở và thời gian để chăm sóc, nuôi dạy con còn anh L hiện tại công việc không ổn định, đi làm ăn xa quê, thường xuyên không sinh sống tại nơi đăng ký nhân khẩu thường trú, không có chỗ ở ổn định. Do vậy, xem xét quyền lợi mọi mặt của trẻ em, Hội đồng xét xử xét cần giao cháu Bùi Trung H cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là hợp tình, hợp lý và phù hợp quy định pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng chị L chưa yêu cầu anh Bùi Văn L đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung. Xét đây là ý kiến tự nguyện của chị Bùi Thị Thúy L và không ảnh hưởng đến việc nuôi con của chị L nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Chị Bùi Thị Thúy L vẫn có quyền yêu cầu anh Bùi Văn L cấp dưỡng trong quá trình nuôi dưỡng con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Anh Bùi Văn L có quyền thăm nom con chung sau ly hôn theo quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung: chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết và việc anh L vắng mặt nên Tòa án không lấy được ý kiến của anh L nên không có cơ sở xem xét. Trường hợp sau này có tranh chấp về tài sản chung và có yêu cầu thì sẽ được xem xét bằng vụ việc khác.

[5] Về nợ chung của vợ chồng: Xác định không có.

[6] Án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị Thúy L về việc xin ly hôn;

cho chị Bùi Thị Thúy L được ly hôn với anh Bùi Văn L.

2. Về nuôi con: Chị Bùi Thị Thúy L và anh Bùi Văn L có 01 con chung là Bùi Trung H, sinh ngày 23/8/2017. Sau khi ly hôn, giao cháu Bùi Trung H cho chị Bùi Thị Thúy L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Bùi Văn L chưa phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do chị Bùi Thị Thúy L chưa có yêu cầu. Anh Bùi Văn L có quyền thăm nom con chung sau ly hôn mà không ai được cản trở. Bùi Văn L không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị Bùi Thị Thúy L.

3. Về tài sản chung: Không có 4. Về công nợ chung: không có.

5. Án phí: Chị Bùi Thị Thúy L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào 300.000đ đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0004233 ngày 14/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn; chị Bùi Thị Thúy L đã nộp xong án phí.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn giữa chị Bùi Thị Thúy L và anh Bùi Văn L (chồng công việc không ổn định, đi làm ăn xa quê) số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về