Bản án về tranh chấp ly hôn, con chung số 34/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KIẾN TƯỜNG, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 34/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, CON CHUNG

Ngày 29 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kiến Tường xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 18/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2021 về việc “tranh chấp ly hôn, con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Kiều C, sinh năm 1984; Địa chỉ: Ấp O, xã B, thị xã K, tỉnh L. (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1976; Địa chỉ: Ấp O, xã B, thị xã K, tỉnh L. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn của bà Lê Thị Kiều C và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyên đơn bà Lê Thị Kiều C trình bày: Vào năm 2002 bà với ông P tìm hiểu, thương yêu nhau và tiến hành tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân thị trấn Mộc Hóa (nay là Phường 1, thị xã Kiến Tường). Hôn nhân tự nguyện không ai ép buộc, cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc thời gian đầu khi cưới sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Từ đó, tình cảm vợ chồng rạn nứt và lạnh nhạt nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn, hiện nay bà với ông P đã sống ly thân nhau nên không còn điều kiện, khả năng để hàn gắn trở lại xây dựng hạnh phúc gia đình nuôi dạy con con chung. Vì vậy, bà làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông P trả tự do cho nhau.

Về con chung: Trong thời gian vợ chồng bà C, ông P chung sống có hai người con chung tên Nguyễn Quốc Khánh, sinh ngày 02 tháng 9 năm 2003, giới tính nam và Nguyễn Tường Vy, sinh ngày 04 tháng 02 năm 2005, giới tính nữ, hiện nay bà trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà C xác định không có không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Bà C cam kết không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi nhận được đơn khởi kiện của bà Lê Thị Kiều C Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản hòa giải ngày 25 tháng 3 năm 2021 bị đơn ông Nguyễn Văn P trình bày: Về hôn nhân: Ông xác định tình cảm vợ chồng phát sinh mâu thuẫn khoảng 4 năm không còn hạnh phúc, tuy nhiên ông còn thương vợ, thương con nên không đồng ý ly hôn với bà C.

Về con chung: Có hai người con chung tên Nguyễn Quốc K, sinh ngày 02 tháng 9 năm 2003, giới tính nam và Nguyễn Tường V, sinh ngày 04 tháng 02 năm 2005, giới tính nữ, hiện nay bà C trực tiếp nuôi dưỡng, nếu ly hôn ông yêu cầu được nuôi dưỡng không yêu cầu bà C cấp dưỡng nuôi con.;

Về tài sản chung: Có tài sản chung nếu ly hôn ông yêu cầu chia đôi. Về nợ chung: Ông P xác định không có không yêu cầu giải quyết.

Do các đương sự không thống nhất thỏa thuận được việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Bà Lê Thị Kiều C, sinh năm 1984; Địa chỉ: Ấp O, xã B, thị xã K, tỉnh L. khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1976; Địa chỉ: Ấp O, xã B, thị xã K, tỉnh L. Tòa án nhân dân thị xã Kiến Tường thụ lý giải quyết là phù hợp với khoản 1 Điều 28, Điểm a khoản 1 Điều 35 và Điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiền tòa Tòa án đã niêm yết hợp lệ cho ông P theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật Tố Tụng dân sự, nhưng ông P không có mặt và bà Lê Thị Kiều C có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử xử vắng mặt ông P và bà C là phù hợp với quy định của pháp luật tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Bà Lê Thị Kiều C với ông Nguyễn Văn P có đăng ký kết hôn tại y ban nhân thị trấn Mộc Hóa (nay là Phường 1, thị xã Kiến Tường). Đây là hôn nhân hợp pháp nên Tòa án thụ ký giải quyết là phù hợp với với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về nội dung:

[1] Về hôn nhân: Bà Lê Thị Kiều C xác định không còn tình nghĩa vợ chồng với ông Nguyễn Văn P, không còn điều kiện, khả năng để hàn gắn trở lại xây dựng hạnh phúc gia đình nên yêu cầu được ly hôn với ông P. Còn ông Nguyễn Văn P xác định tình cảm vợ chồng phát sinh mâu thuẫn khoảng 4 năm không còn hạnh phúc, tuy nhiên ông còn thương vợ, thương con nên không đồng ý ly hôn với bà C. Xét thấy, tình cảm vợ chồng của bà C với ông P đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không thương yêu, quí trọng, chăm sóc giúp đỡ nhau, hiện tại hai người đã sống ly thân nên không còn điều kiện để hàn gắn trở lại xây dựng hạnh phúc gia đình. Vì vậy, cần xem xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Thị Kiều C là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2] Về con chung: Trong thời gian vợ chồng bà C, ông P chung sống có hai người con chung tên Nguyễn Quốc K, sinh ngày 02 tháng 9 năm 2003, giới tính nam và Nguyễn Tường V, sinh ngày 04 tháng 02 năm 2005, giới tính nữ, hiện nay bà C trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn bà C, ông P hai người đều yêu cầu được nuôi dưỡng và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con là nghĩa vụ và quyền của cha mẹ. Tuy nhiên, hiện nay bà C đang trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai người con cháu đến nay phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức bình thường như bao trẻ khác và phù hợp với nguyện vọng của của 2 cháu. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của bà C tiếp tục giao 2 người con chung tên Nguyễn Quốc K, sinh ngày 02 tháng 9 năm 2003, giới tính nam và Nguyễn Tường V, sinh ngày 04 tháng 02 năm 2005, giới tính nữ, cho bà C trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông Nguyễn Văn P không phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 và Đều 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về tài sản chung: Bà C xác định không còn ông P xác định có tài sản chung nếu ly hôn ông yêu cầu chia đôi. Xét thấy việc này Tòa án đã có văn bản số 75/TB-TA ngày 25 tháng 3 năm 2021 yêu cầu ông P phải làm đơn yêu cầu chia tài sản chung đã tống đạt trực tiếp cho ông P từ ngày 25/3/2021 đến nay nhưng ông P không có đơn. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này, trường hợp ông P có yêu cầu chia tài sản thì khởi kiện Tòa án sẽ giải quyết thành vụ án chia tài sản sau khi ly hôn.

[4] Về nợ chung: Bà C, ông P cam kết không có không nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Theo quy định tại Điểm b khoản 1 Điều 3, Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016. Bà Lê Thị Kiều C phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39;

Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; Điều 56 và từ Điu 81 đến Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 1 Điều 3, điểm a khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Kiều C đối với ông Nguyễn Văn P.

Về hôn nhân: Xử cho bà Lê Thị Kiều C ly hôn với ông Nguyễn Văn P.

Về con chung: Tiếp tục giao hai người con chung tên Nguyễn Quốc K, sinh ngày 02 tháng 9 năm 2003, giới tính nam và Nguyễn Tường V, sinh ngày 04 tháng 02 năm 2005, giới tính nữ, cho bà Lê Thị Kiều C trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông Nguyễn Văn P không phải cấp dưỡng nuôi con do bà C không yêu cầu.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con chung, theo yêu cầu Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Bà Lê Thị Kiều C phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0009579 ngày 02/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An. Bà Lê Thị Kiều C đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho bà C và ông P biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, con chung số 34/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:34/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã Kiến Tường - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về