Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 63/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

 BẢN ÁN 63/2021/DS-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 226/2020/TLST-DS ngày 30/11/2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2021/QĐXXST - DS, ngày 09 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng C; địa chỉ: Số x, Phố L, phường H, quận H, thành phố Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp: Ông Trương Quốc K – Giam đốc phu trach phong giao dich Ngân hang C huyên L; địa chỉ: Ấp X, thị trấn L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng là người đại diện theo uy quyền cho nguyên đơn “Quyết định ủy quyền số 7300/QĐ-NHCS ngày 19/9/2019 của Tổng Giám đốc Ngân hàng C V/v Ủy quyền tham gia tố tụng và thi hành án” (Có mặt).

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1976 và ông Mạch Văn N, sinh năm 1975; cùng đia chỉ: Ấp N, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện lập ngày 21/9/2020, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Vào ngày 15/5/2009, bà Nguyễn Thị A và chồng là ông Mạch Văn N có làm giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay để vay của Ngân hàng C (gọi tắt là: Ngân hàng) số tiền 20.000.000 đồng theo chương trình vay hộ nghèo. Mục đích vay: chăn nuôi. Thời hạn vay 60 tháng, kỳ hạn trả nợ 06 tháng một lần. Lãi suất 0,9%/tháng, lãi suất nợ quá hạn là 130% lãi suất khi cho vay.

Đến ngày 22/6/2009 được Ngân hàng phê duyệt và giải ngân vào ngày 24/6/2009 với số tiền là 20.000.000đồng và xác định hạn trả nợ cuối cùng là ngày 24/6/2014, bà A và ông N đã nhận đủ số tiền trên. Sau đó đến ngày 11/6/2014 Ngân hàng đã tiến hành khoanh nợ đối với khoản vay này của bà A, ông N theo Quyết định số 892/QĐ-TTg ngày 11/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ đến hết ngày 11/6/2019. Tuy nhiên, từ ngày 11/6/2019 đến nay bà A và ông N không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng, do đó Ngân hàng đã chuyển sang nợ quá hạn và nhiều lần yêu cầu bà A, ông N thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng bà A và ông N không thực hiện.

Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Nguyễn Thị A và chồng là ông Mạch Văn N phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ với tổng số tiền còn nợ đã quá hạn tính đến ngày 24/9/2021 là 26.431.475 đồng (nợ gốc: 20.000.000 đồng, nợ lãi 6.431.475đồng) và tiền lãi phát sinh cho đến khi bị đơn trả hết nợ gốc.

- Tại biên bản lấy lời khai đương sự ngày 04 tháng 01 năm 2021, bị đơn ông Mạch Văn N trình bày: Thống nhất theo nội dung khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng C về việc ông và vợ là bà Nguyễn Thị A có vay của Ngân hàng số tiền 20.0000.000 đồng, Ngân hàng đã giải ngân, ông và bà A đã nhận đủ tiền tuy nhiên đến nay vẫn chưa trả số nợ gốc này. Đối với số tiền nợ này ông đồng ý ông và bà A cùng có trách nhiệm trả cho Ngân hàng, tuy nhiên hiện nay hoàn cảnh ông và bà A đang gặp khó khăn về vấn đề kinh tế chưa có khả năng trả nợ, khi nào ông và bà A có điều kiện sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng đủ số tiền gốc và lãi phát sinh.

- Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị A: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho bà A, nhưng bà không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà A hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà vẫn vắng mặt không lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà A để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không cung cấp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Tại phiên toà, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến: Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hôi đồng xét xư va những người tham gia tố tụng trong qua trình giải quyết vu án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tung dân sư. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra các chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 107, 471, 474 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Từ sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho bà Nguyễn Thị A, nhưng bà A không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà A hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Tại phiên tòa bị đơn bà Nguyễn Thị A và ông Mạch Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn phiên tòa.

[2]. Về yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng C buộc bị đơn có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng số tiền vay gốc là 20.000.000đồng: Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, Ngân hàng có cung cấp cho Tòa án giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay của bà Nguyễn Thị A và chồng là ông Mạch Văn N, kèm theo sổ lưu tờ rời theo dõi nợ vay – thu nợ - dư nợ vào ngày 24/6/2009, mã món vay: 6600006200151216 xác định bà A là người vay, ông N là người thừa kế, tại mục người vay có chữ ký tên Nguyễn Thị A và mục người thừa kế có chữ ký tên Mạch Văn N và các giấy tờ khác có liên quan. Xét thấy việc ký kết giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay giữa bà Nguyễn Thị A và chồng là ông Mạch Văn N với Ngân hàng là hoàn toàn tự nguyện. Tại thời điểm ký kết, các bên tham gia ký kết hợp đồng có đủ thẩm quyền và năng lực giao kết hợp đồng. Hợp đồng đảm bảo về mặt hình thức và nội dung, không trái pháp luật, đạo đức xã hội nên có hiệu lực pháp luật. Trong quá trình giải quyết, bị đơn ông Mạch Văn N thừa nhận việc ông và bà Nguyễn Thị A là vợ chồng, bà A là người vay, ông là người thừa kế để thực hiện thủ tục vay vốn của của Ngân hàng để vay số tiền 20.0000.000đồng theo chương trình cho vay sản xuất kinh doanh vùng khó khăn như Ngân hàng khởi kiện, đến nay số nợ này ông và bà A vẫn chưa trả cho Ngân hàng. Đối với số tiền nợ này ông đồng ý ông và bà A cùng có trách nhiệm trả cho Ngân hàng, tuy nhiên hiện nay do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên ông chưa có khả năng trả nợ. Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị A trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các tài liệu, chứng cứ mà bên nguyên đơn cung cấp và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho bà A nhưng bà không có ý kiến phản đối gì. Căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự thì những tình tiết nêu trên không phải chứng minh nên đủ cở sở xác định bà Nguyễn Thị A và ông Mạch Văn N có thực hiện việc vay vốn của Ngân hàng C số tiền 20.000.000đồng là có thật. Mặc dù bà A là người trực tiếp đứng tên người vay nhưng ông Mạch Văn N là chồng bà A, là thành viên của hộ, việc vay vốn của Ngân hàng chính sách mục đích phát triển kinh tế cho hộ gia đình, vì lợi ích chung của hộ. Căn cứ quy định tại Điều 107 Bộ luật dân sự năm 2005 “Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình”. Vì vậy, bà Nguyễn Thị A và ông Mạch Văn N phải cùng có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng C. Do đó, Ngân hàng C yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị A và ông Mạch Văn N phải trả nợ số tiền gốc 20.000.000đồng là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 290, Điều 471, Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Đối với việc bị đơn ông Mạch Văn N yêu cầu khi nào có điều kiện về kinh tế sẽ thực hiện nghĩa vụ trả đủ một lần gốc và lãi cho Ngân hàng. Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của Nguyên đơn không đồng ý và yêu cầu bị đơn trả đủ một lần số tiền nợ này nên Hội đồng xét xử không có cơ sở đặt ra xem xét.

[4]. Về lãi suất: Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn buộc bị đơn có nghĩa vụ trả số tiền lãi còn nợ đến ngày 24/9/2021 là 6.431.475đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay của bà Nguyễn Thị A và chồng là ông Mạch Văn N, kèm theo sổ lưu tờ rời theo dõi nợ vay – thu nợ - dư nợ vào ngày 24/6/2009, mã món vay: 6600006200151216 xác định lãi suất thỏa thuận của các bên khi cho vay trong hạn là 0,9%/tháng và lãi suất quá hạn là 130% lãi suất khi vay. Lãi suất do các bên thỏa thuận là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Mặc khác theo bảng kê tính lãi hộ Nguyễn Thị A đến ngày 24/9/2021 của nguyên đơn cung cấp thì sau khi vay bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn tiền lãi tính đến ngày 24/9/2021 là 9.150.000đồng, số tiền lãi còn nợ là 6.431.475đồng. Do vậy, việc bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả tiếp dư nợ gốc và lãi theo giao kết trong hợp đồng đã vi phạm hợp đồng cho vay mà các bên đã ký kết, bị đơn là người có lỗi và là người vi phạm hợp đồng nên phải chịu mọi hậu quả theo giao kết và theo quy định của pháp luật. Như vậy, bị đơn phải hoàn trả cho Ngân hàng số tiền lãi theo giao kết trong hợp đồng tạm tính đến ngày 24/9/2021 là 6.431.475đồng và tiền lãi quá hạn của số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi trả xong nợ gốc là có căn cứ, phù hợp với nội dung Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nêu rõ nội dung áp dụng án lệ về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6 Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị đơn bà Nguyễn Thị A và chồng là ông Mạch Văn N phải chịu 1.321.573đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 106, 107, 280, 285, 290, 471 và 474 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng C Buộc bà Nguyễn Thị A và chồng là ông Mạch Văn N có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng C dư nợ tính đến ngày 24/9/2021 với số tiền vay gốc là 20.000.000đồng (Hai mươi triệu đồng), tiền lãi là 6.431.475đồng (Sáu triệu bốn trăm ba mươi mốt nghìn bốn trăm bảy mươi lăm đồng), tổng cộng là 26.431.475đồng (Hai mươi sáu triệu bốn trăm ba mươi mốt nghìn bốn trăm bảy mươi lăm đồng).

“Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay”.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị A và ông Mạch Văn N phải chịu 1.321.573đồng (Một triệu ba trăm hai mươi mốt nghìn năm trăm bảy mươi ba đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền giao kết thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 63/2021/DS-ST

Số hiệu:63/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về