Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 47/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 47/2023/DS-PT NGÀY 07/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 304/2022/TLPT-DS ngày 09/11/2022 về việc tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 69/2022/DS-ST ngày 30/8/2022 của Toà án nhân dân thị xã CL, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 352/2022/QĐ-PT ngày 17/11/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Ngọc D, sinh năm 1973.

Địa chỉ: ấp TA, xã TP, huyện CL, tỉnh Tiền Giang.

Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của nguyên đơn : Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1992 (Theo Hợp đồng ủy quyền ngày 20/10/2022) (có mặt).

Địa chỉ: ấp Mỹ TB, xã Mỹ Q, thị xã Ngã N, tỉnh ST.

- Bị đơn:

1. Ông Lê Văn T, sinh năm 1969.

Địa chỉ: ấp Quý T, xã Nhị Q, thị xã CL, tỉnh Tiền Giang.

Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bị đơn ông Lê Văn T: Chị Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 1978 (có mặt).

Địa chỉ: số 19/8, Lê Thị HG, phường 6, Tp.MT, Tiền Giang.

2. Bà Trần Thị Thanh T1 - Sinh năm 1980 (Có mặt).

Địa chỉ: ấp Quý T, xã Nhị Q, thị xã CL, tỉnh Tiền Giang.

- Người kháng cáo: Bị đơn Lê Văn T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo bản án sơ thẩm, nguyên đơn bà Bùi Thị Ngọc D trình bày: Vào năm 2021, vợ chồng ông Lê Văn T và bà Trần Thị Thanh T1 đã mượn tiền của nguyên đơn 03 (ba) lần với tổng số tiền là 740.000.000 đồ ng, cụ thể từng lần mượn tiền như sau:

- Ngày 01/01/2021, ông T bà T1 mượn số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), ông T bà T1 hứa trong vòng 20 ngày sẽ trả lại;

- Ngày 18/02/2021 (07/01/2021AL), ông T bà T1 mượn số tiền 640.000.000 đồng hứa trong vòng 01 năm sẽ trả lại;

- Ngày 30/12/2021, ông T bà T1 mượn số tiền 50.000.000 đồng, hứa trong vòng 20 ngày sẽ trả lại.

Nhưng đến hạn trả nợ thì ông T, bà T1 không trả số tiền đã mượn của nguyên đơn.

Nguyên đơn bà Bùi Thị Ngọc D yêu cầu Tòa án buộc ông T bà T1 phải có nghĩa vụ trả số tiền mượn còn nợ tổng cộng 03 lần với số tiền là 740.000.000 đồng, thực hiện trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật. Không yêu cầu tính lãi.

* Bị đơn ông Lê Văn T trình bày:

Số tiền nợ bà D là do chị T1 mượn riêng, ông không có biết và ông không có mượn tiền của bà D, nên ông không có nghĩa vụ phải trả cho bà D.

* Bị đơn bà Trần Thị Thanh T1 trình bày:

Số tiền 740.000.000 đồng bà D yêu cầu ông T và bà phải có nghĩa vụ liên đới trả, nguồn gốc số tiền nợ trên từ việc nợ hụi và vay mượn, nhưng bà đã trả tiền lãi cho bà D nhiều lần, bà cũng thừa nhận việc nợ tiền bà D như bà D trình bày. Nhưng bà yêu cầu bà D cho bà trả 100.000.000 đồng, không có khả năng trả hết số tiền 740.000.000 đồng như bà D yêu cầu.

* Bản án dân sự sơ thẩm số 69/2022/DS-ST ngày 30/8/2022 của Toà án nhân dân thị xã CL, tỉnh Tiền Giang, đã áp dụng các Điều 463, 466, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 24, 25 và 26, khoản 1 Điều 27, khoản 1 Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị Ngọc D.

Buộc bà Trần Thị Thanh T1 và ông Lê Văn T phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Bùi Thị Ngọc D số tiền 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng). Thực hiện nghĩa vụ trả tiền nợ khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bà Bùi Thị Ngọc D có đơn yêu cầu gửi cơ quan thi hành án, nếu bị đơn ông Lê Văn T và bà Trần Thị Thanh T1 chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Lê Văn T và bà Trần Thị Thanh T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 33.600.000 đồng.

Bà Bùi Thị Ngọc D, không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, nên được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 16.800.000 đồng theo biên lai thu số 0002491 ngày 18/4/2022 của Chi Cục thi hành án dân sự thị xã CL, tỉnh Tiền Giang.

- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo của đương sự.

* Ngày 30/8/2022, bị đơn ông Lê Văn T có đơn kháng cáo yêu cầu: xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng chỉ buộc một mình bà Trần Thị Thanh T1 có nghĩa vụ trả cho bà D số tiền 740.000.000 đồng.

* Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự trình bày:

- Chị Nguyễn Thị Mỹ H – đại diện theo ủy quyền của ông Lê Văn T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Anh Nguyễn Văn L – đại diện theo ủy quyền của bà Bùi Thị Ngọc D và chị Trần Thị Thanh T1 không đồng ý theo yêu cầu kháng cáo của ông T, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phát biểu:

+ Về tố tụng: Kể từ ngày thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tuân thủ đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung vụ án: Yêu cầu kháng cáo của ông T là có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T, sửa bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên và những quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét xác định mối quan hệ tranh chấp, thẩm quyền và áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án đúng quy định pháp luật dân sự và tố tụng dân sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của ông Lê Văn T; Hội đồng xét xử nhận thấy:

Ông Lê Văn T kháng cáo cho rằng khoản nợ của bà D là nợ của cá nhân bà T1 nên ông không đồng ý liên đới với bà T1 trả nợ cho bà D. Tại Tòa án cấp phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của ông T có đơn yêu cầu Tòa án tiến hành xác minh những người làm chứng gồm: ông Nguyễn Văn Khoe, ông Phùng Văn Nước, ông Nguyễn Văn Tình và bà Nguyễn Thị Dũng.

Tại Tòa án cấp phúc thẩm, bà Trần Thị Thanh T1 có đơn yêu cầu Tòa án tiến hành xác minh người làm chứng. Bà T1 cam kết trong thời hạn 10 ngày sẽ nộp tạm ứng chi phí tố tụng để Tòa án tiến hành xác minh nhưng hết thời hạn cam kết mà bà T1 không nộp, nên xem như không yêu cầu Tòa án thực hiện.

Bà T1 trình bày: Khi về sống chung, ông T đã có nợ, bà vay mượn nợ của rất nhiều người để trang trải cuộc sống; chăn nuôi bị lỗ, đầu tư vào 08 công đất thuê của cha mẹ chồng để nuôi cá nhưng vô cớ bị lấy lại trong khi chưa thu hồi được tiền vốn nào, mua 01 công đất, thuê 09 công đất gần nhà để nuôi cá nhưng bị lỗ do mất giá, lo cho 02 đứa con riêng c ủa ông T ăn học và mua cho mỗi đứa 01 chiếc xe gắn máy, nuôi 02 con chung với ông T, đầu tư chăn nuôi 06 con bò.....dẫn đến đổ nợ. Bà phải vay của 43 người (trong đó bà có vay tiền của bà D) với tổng số tiền trên 5 tỷ đồng để sử dụng vào việc cải tạo vườn, mướn đất nuôi cá, nuôi bò, sử dụng trong việc chi tiêu cuộc sống gia đình, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình và nhằm trả tiền cho các khoản nợ cũ. Ông T có hứa bán 02 công đất để trả nợ nhưng không thực hiện.

Xét thấy: Lời trình bày của bà T1 có nhiều mâu thuẫn về mục đích sử dụng số tiền vay. Bởi lẽ, bà T1 và đại diện theo ủy quyền của ông T đều thống nhất: vào năm 2014, vợ chồng bà T1, ông T được bồi thường giá trị đất số tiền khoảng 360.000.000 đồng, đã sử dụng số tiền này để trả nợ. Kết quả xác minh ngày 03/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang thể hiện: chính quyền địa phương cũng như những người làm chứng là hàng xóm gần nhà ông T đều xác định vợ chồng ông T không có làm ăn hay kinh doanh tại địa p hương. Quá trình chung sống, ông bà không có tạo lập tài sản mới; ông T chăn nuôi bò, làm vườn, bà T1 là giáo viên tiểu học; vào năm 2014 – 2015 ông T có tổ chức tiệc mừng trả hết nợ khi nhận được tiền bồi thường đất làm tuyến tránh huyện CL với số tiền khoảng 400.000.000 đồng.

Trong một thời gian ngắn, số tiền bà T1 vay của bà D và nhiều người khác là rất lớn; trong khi đó, vào thời điểm năm 2020 - 2021, dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, bà T1 không thể trong một thời gian ngắn sử dụng hết số tiền vay lớn như vậy vào mục đích đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, cải tạo vườn, nuôi con ăn học vì ông bà đều có nguồn thu nhập riêng. Đồng thời, bà T1 không chứng minh được số tiền vốn và lãi phải trả hàng tháng của các khoản nợ cũ, dẫn đến việc bà phải vay, mượn tiền của nhiều người với số tiền lên tới hàng trăm triệu đồng mỗi tháng.

Hơn nữa, tất cả các khoản vay đều do bà T1 trực tiếp đứng ra giao dịch và làm biên nhận với nguyên đơn, ông T không tham gia giao dịch vay mượn tiền với bà D và cũng không ký tên vào biên nhận. Bà D và bà T1 cho rằng vợ chồng bà T1, ông T cùng vay tiền nhưng lại không yêu cầu ông T cùng ký tên vào các biên nhận.

Bà D và bà T1 không chứng minh được các khoản vay này được sử dụng vào mục đích nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình để buộc ông T có nghĩa vụ liên đới trả nợ theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình. Do chỉ cá nhân bà T1 giao dịch vay tiền của bà D nên việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử buộc ông T cùng bà T1 có nghĩa vụ liên đới trả tiền cho bà D là chưa phù hợp với quy định của khoản 3 Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông T, sửa bản án sơ thẩm.

[3] Ý kiến của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của ông Lê Văn T được chấp nhận nên ông T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, 309, Điều 313 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Áp dụng khoản 2 Điều 357, Điều 463, 466, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Lê Văn T.

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 69/2022/DS-ST ngày 30/8/2022 của Toà án nhân dân thị xã CL, tỉnh Tiền Giang.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị Ngọc D.

Buộc bà Trần Thị Thanh T1 phải có nghĩa vụ trả cho bà Bùi Thị Ngọc D số tiền 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bà Bùi Thị Ngọc D có đơn yêu cầu gửi cơ quan thi hành án, nếu bà Trần Thị Thanh T1 chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí:

2.1. Án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Trần Thị Thanh T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 33.600.000 đồng.

Bà Bùi Thị Ngọc D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, nên được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 16.800.000 đồng theo biên lai thu số 0002491 ngày 18/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã CL, tỉnh Tiền Giang.

2.2. Án phí dân sự phúc thẩm:

Ông Lê Văn T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn lại ông T số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002621 ngày 14/9/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã CL.

3. Những quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

- Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 47/2023/DS-PT

Số hiệu:47/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 07/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về