Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 46/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 46/2022/DS-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 76/2022/TLST-DS ngày 04 tháng 5 năm 2022 về “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2022/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1943. Địa chỉ: Số 204, đường Huỳnh Văn Đ, phường 3, thành phố T, tỉnh L.

Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bà H: Ông Trần Hiếu M, sinh năm: 1968. Địa chỉ: Số 204A, đường Huỳnh Văn Đ, phường 3, thành phố T, tỉnh L (theo văn bản ủy quyền đề ngày 25/02/2022), có mặt.

- Bị đơn: Bà Trương Thị Kim D, sinh năm: 1965. Địa chỉ: Số 142/7, ấp 7, xã Ph, huyện C, tỉnh L (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 03-3-2022 và ngày 07-3-2022 và trong quá trình giải quyết vụ án ông Trần Hiếu M là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Bà Nguyễn Thị H có cho bà Trương Thị Kim D vay 03 lần, cụ thể như sau:

Lần 1: Vào ngày 10/8/2018 (dương lịch) bà H có cho bà D vay số tiền 100.000.000 đồng, thời hạn vay 06 tháng sau trả, mục đích vay để bà D canh tác thanh long, hai bên thỏa thuận lãi suất vay là 2%/tháng.

Lần 2: Vào ngày 10/02/2019 (dương lịch) bà H có cho bà D vay số tiền 50.000.000 đồng, thời hạn vay 06 tháng sau trả, mục đích vay để bà D canh tác thanh long, hai bên thỏa thuận lãi suất vay là 2%/tháng.

Lần 3: Bà H cho bà D vay số tiền là 114.000.000 đồng, sau đó bà D trả được 34.000.000 đồng, đến ngày 16/8/2020 (dương lịch) bà D trả 30.000.000 đồng và hai bên chốt số tiền còn nợ là 50.000.000 đồng, bà D hẹn đến ngày 05/9/2020 (dương lịch) trả nhưng bà D không trả, mục đích vay để bà D canh tác thanh long, hai bên thỏa thuận lãi suất vay là 2%/tháng.

Như vậy, bà D đã vay và còn nợ bà H với tổng số tiền là 200.000.000 đồng. Nay đã quá hạn trả nợ nhưng bà D không trả tiền vốn vay theo thỏa thuận, vì vậy bà H yêu cầu bà D trả số tiền vốn vay là 200.000.000 đồng theo giấy nợ bà D đã ký kết, bà H không yêu cầu tính lãi suất.

Bà Trương Thị Kim D là bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng nhưng bà D vẫn vắng mặt không có lý do nên không có lời trình bày.

Kiểm sát viên tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về thủ tục tố tụng. Các đương sự chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Qua các chứng cứ có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên toà, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn thanh toán cho nguyên đơn số tiền vốn vay còn nợ là 200.000.000 đồng, bị đơn chậm thanh toán thì phải chịu tiền lãi chậm trả theo quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Thị H có đơn khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản với bà Trương Thị Kim D, việc tranh chấp được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Bà Trương Thị Kim D cư trú tại huyện Châu Thành, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ lý giải quyết là đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thủ tục xét xử vắng mặt bị đơn: Bà Trương Thị Kim D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà D.

[2]. Về nội dung vụ án: Bà Nguyễn Thị H yêu cầu bà Trương Thị Kim D trả số tiền vốn vay là 200.000.000 đồng, yêu cầu trả một lần khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Xét thấy, nguyên đơn cung cấp được giấy nợ có nội dung: “…hôm nay là ngày…tôi là Trương Thị Kim D có nhận/có mượn của bà Nguyễn Thị H số tiền…” có chữ ký tên và chữ viết họ tên Trương Thị Kim D.

Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, mặc dù Tòa án nhiều lần triệu tập bà D tham gia tố tụng để làm rõ nội dung vụ án nhưng bà D đều vắng mặt không đến Tòa án giải quyết vụ án và cũng không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, điều này thể hiện việc bà D đã từ bỏ quyền chứng minh cho mình.

[3]. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền vốn vay 200.000.000 đồng theo giấy nợ đã cung cấp là có căn cứ, phù hợp với quy định tại các Điều 463, 466, 468 và 470 Bộ luật dân sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H, buộc bà D trả cho bà H số tiền vốn vay 200.000.000 đồng. Bà D còn phải chịu tiền lãi chậm thanh toán nợ gốc theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa, các đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.

[4]. Quan điểm giải quyết vụ án của kiểm sát viên tham gia phiên tòa là có căn cứ nên chấp nhận.

[5]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H được chấp nhận nên bà Trương Thị Kim D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án (200.000.000 đồng x 5% = 10.000.000 đồng). Bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 357, 463, 466, 468 và 470 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản của bà Nguyễn Thị H đối với bà Trương Thị Kim D.

Buộc bà Trương Thị Kim D có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền vốn vay là 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí: Bà Trương Thị Kim D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng.

Bà Nguyễn Thị H được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 6.582.000 đồng, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007830 ngày 04 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

4. Về nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

85
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 46/2022/DS-ST

Số hiệu:46/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về