Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 437/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 437/2022/DS-PT NGÀY 02/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 8 năm 2022, tại phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 201/2022/TLPT-DS ngày 07 tháng 7 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 617/2022/DS-ST ngày 22/4/2022 của Toà án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyêt định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3831/2022/QĐ-PT ngày 13/7/2022 và Quyêt định hoãn phiên tòa số 10003/2022/QĐ-PT ngày 29 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Hồng Q, sinh năm 1946 Địa chỉ: 308 lô G Cư xá M, Phường N, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Trung H, sinh năm 1974 Địa chỉ: Số 461 L, Phường K, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Giấy ủy quyền công chứng số 27020 ngày 8/12/2020) (có mặt).

2. Bị đơn: Trần Ngọc Ái P sinh năm 1985 Địa chỉ: Số 140/17 P, Phường N, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Ngọc O, sinh năm 1974 Địa chỉ: 497/83/40 A, Phường 16, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh (Giấy ủy quyền công chứng số 006746 ngày 11/5/2021) (có mặt).

3. Người kháng cáo: Bị đơn bà Trần Ngọc Ái P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tài liệu có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng Q có đại diện theo ủy quyền là ông Phạm Trung H trình bày như sau:

Ngày 08/8/2017, nguyên đơn và bà Trần Ngọc Ái P ký hợp đồng vay tiền, công chứng số 16597 ngày 8/8/2017 tại Văn phòng công chứng B. Nội dung hợp đồng: bà Nguyễn Thị Hồng Q cho bà Trần Ngọc Ái P vay số tiền 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng, thời hạn vay 07 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, lãi suất do hai bên tự thỏa thuận là 12%/năm (1%/tháng) và bà P sử dụng số tiền vay vì mục đích cá nhân riêng. Sau khi nhận tiền vay đên hạn trả nợ, bị đơn không trả nợ gốc và lãi dù nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu trả nợ.

Nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bị đơn, bà Trần Ngọc Ái P trả số tiền 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng và tiền lãi tính từ ngày 08/8/2017 đên ngày 08/12/2020 (40 tháng) là 200.000.000 x 1%/tháng x 40 tháng = 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng. Tổng số tiền nguyên đơn yêu cầu bà P trả là 280.000.000 (hai trăm tám mươi triệu) đồng.

Theo bản tự khai, biên bản hòa giải và tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bị đơn bà Trần Ngọc Ái P có đại diện theo ủy quyền là ông Phan Ngọc O trình bày:

Ngày 08/8/2017, bà Trần Ngọc Ái P và bà Nguyễn Thị Hồng Q ký hợp đồng vay tiền công chứng số 16597 ngày 8/8/2017 tại Văn phòng công chứng B. Nội dung hợp đồng như nguyên đơn đã trình bày. bà P đã trả cho bà Q 11.000.000 đồng tiền gốc. Từ năm 2014 đên năm 2017 bà P đã trả nhiều lần tiền lãi với lãi suất 7%/tháng, việc trả lãi không có chứng từ. Nay bà P gặp nhiều khó khăn nên xin trả mỗi tháng 1.000.000 đồng tiền gốc. Phần tiền lãi bà P xin nguyên đơn miễn.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn yêu cầu bị đơn, bà Trần Ngọc Ái P trả nợ gốc là 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng và tiền lãi trong hạn vay 7 tháng là 14.000.000 đồng; tiền lãi quá hạn tính đên nay là 49 tháng, lãi suất 1.5%/tháng, số tiền 162.150.000 đồng. Tổng số tiền nguyên đơn yêu cầu bà P trả là 376.650.000 đồng một lần ngay khi bản án có hiệu lực. Bị đơn đồng ý số tiền vay nguyên đơn là 200.000.000 đồng, tuy nhiên đã trả 11.000.000 đồng tiền gốc.

Đề nghị cấn trừ vào tiền gốc, số tiền còn nợ là 189.000.000 đồng. Về tiền lãi, bị đơn không có ý kiên, đề nghị tính theo hợp đồng và đúng quy định của pháp luật. Về phương thức trả nợ, do khó khăn nên bị đơn xin trả mỗi tháng 1.000.000 đồng tiền gốc. Nguyên đơn đồng ý với số tiền gốc là 189.000.000 đồng và tính lãi trên số tiền này.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 617/2022/DS-ST ngày: 22/4/2022 của Toà án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên:

Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 244, 227, 228, 271, 273 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 357, 463, 466, 470, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Áp dụng Điều 26 Luật Thi hành án dân sự;

Nghị quyêt 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn – bà Nguyễn Thị Hồng Q.

Buộc bà Trần Ngọc Ái P phải trả cho bà Nguyễn Thị Hồng Q tiền nợ gốc là 189.000.000 đồng, tiền lãi trong hạn là 13.200.000 đồng, lãi quá hạn là 138.915.000 đồng; tổng số tiền là 341.145.000 đồng; trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nêu bị đơn chưa thi hành số tiền nêu trên thì hàng tháng bị đơn còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Nguyễn Thị Hồng Q được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Trần Ngọc Ái P phải chịu án phí là 17.057.250 đồng, nộp tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ Thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 29 tháng 4 năm 2022, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Trần Ngọc Ái P có đơn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Ông Phan Ngọc O là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Ông Phạm Trung H là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng Q vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các bên đương sự không thỏa thuận được việc giải quyêt vụ án và không cung cấp chứng cứ mới.

Đại diện theo ủy quyền của bà Trần Ngọc Ái P người kháng cáo trình bày: Theo đơn kháng cáo phía bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm phía bị đơn đồng ý thanh toán cho nguyên đơn số tiền nợ gốc là 189.000.000 đồng và không đồng ý trả lãi theo quyêt định của bản án sơ thẩm vì theo hợp đồng vay tuy các bên có ghi nhận lãi suất do các bên thỏa thuận theo qui định của pháp luật nhưng thực tê các bên không có thỏa thuận lãi nên bị đơn không đồng ý trả lãi cho nguyên đơn. Đồng thời, việc bổ sung yêu cầu đối với khoản tiền lãi quá hạn của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm là vượt quá yêu cầu khởi kiện. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ thỏa thuận của hợp đồng và định của pháp luật xem xét. Phía bị đơn xin trả dần 1.000.000 đồng tháng cho đên khi hêt nợ.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Nguyễn Thị Hồng Q trình bày: Căn cứ hợp đồng vay giữa hai bên có công chứng chứng thực, có thời hạn và có thỏa thuận lãi suất nên nguyên đơn yêu cầu lãi trong hạn 12%/năm và lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn là phù hợp qui định pháp luật. Phía nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiên và đề nghị:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyêt vụ án, kể từ khi thụ lý cho đên trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Kháng cáo kháng nghị trong thời hạn qui định của pháp luật Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn đồng ý thanh toán số tiền gốc còn lại là 189.000.000 đồng. Hợp đồng giữa các bên là vay có thời hạn và có thỏa thuận lãi. Phía nguyên đơn yêu cầu tiền lãi trong hạn và lãi quá hạn là phù hợp theo qui định tại Điều 466 và Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

Căn cứ Khoản 1, Điều 308 đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 617/2022/DS-ST ngày 22 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận B.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và kêt quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thời hạn kháng cáo: Ngày 22 tháng 4 năm 2022, Toà án nhân dân quận B tuyên bản án số 617/2022/DS-ST, ngày 29 tháng 4 năm 2022 ông Phan Ngọc O là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Trần Ngọc Ái P kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm. Kháng cáo của đương sự là trong thời hạn qui định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

[1.2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyêt của Tòa án: Các đương sự tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn cư trú tại quận B. Tòa án nhân dân quận B giải quyêt là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.3] Về xác định tư cách tham gia tố tụng: Bà Trần Ngọc Ái P xuất trình chứng cứ và trình bày việc bà và ông Tính (cha của bà) đã trả tiền gốc cho bà Q làm nhiều lần tổng cộng là 11.000.000 đồng và đề nghị nguyên đơn trừ vào số nợ gốc. Phía nguyên đơn là bà Q đồng ý trừ vào tiền nợ gốc nên Tòa cấp sơ thẩm không đưa ông Tính vào tham gia tố tụng trong vụ án này là phù hợp.

[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Phan Ngọc O là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Trần Ngọc Ái P yêu cầu sửa toàn một phần bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận thanh toán tiền lãi trong hạn và lãi quá hạn theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[2.1] Căn cứ lời khai của nguyên đơn, bị đơn tại phiên tòa phúc thẩm cùng các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Bà Nguyễn Thị Hồng Q cho bà Trần Ngọc Ái P vay số tiền 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng theo hợp đồng vay tiền, đã được Văn phòng công chứng B công chứng số 16597 ngày 08/8/2017, thời hạn vay 07 tháng kể từ ngày 08/8/2017, lãi suất hai bên tự thỏa thuận. Hợp đồng vay của các bên được xác định là vay có thời hạn và có thỏa thuận lãi suất. Các bên đương sự xác định bị đơn đã trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc là 11.000.000 đồng, số tiền nợ gốc còn lại là 189.000.000 đồng. Đại diện hợp pháp của bị đơn đồng ý trả toàn bộ tiền gốc này là phù hợp.

[2.2] Xét về việc bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Trong đơn khởi kiện và quá trình giải quyêt vụ án tại cấp sơ thẩm phía nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền gốc và lãi theo mức lãi suất 1% đên thời điểm xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bổ sung yêu cầu bị đơn, bà Trần Ngọc Ái P trả nợ gốc là 189.000.000 đồng và tiền lãi trong hạn vay 7 tháng là 13.230.000 đồng tương ứng 1%/ tháng; bổ sung tiền lãi quá hạn tính đên nay là 49 tháng 138.915.000 đồng tương đương 1,5%/tháng. Tổng số tiền nguyên đơn yêu cầu bà P trả là 341.145.000 đồng; yêu cầu trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực.

Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2.2.1] Về thủ tục tố tụng việc bổ sung yêu cầu phần lãi suất quá hạn của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 71, khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu của nguyên đơn.

[2.2.2] Về số tiền lãi trong hạn: Phía nguyên đơn khai lãi suất trên thực tê các bên thỏa thuận miệng là 1% tháng, tương đương 12%/năm. Phía bị đơn không đồng ý với trình bày của nguyên đơn nhưng không có tài liệu chứng cứ chứng minh. Do đó, có cơ sở xác định, mức lãi suất các bên thỏa thỏa thuận Theo Hợp đồng vay ký ngày 08/8/2017 và theo thừa nhận của nguyên đơn 12%/năm là phù hợp theo khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 cụ thể “Lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác…”, như vậy: Lãi suất trong hạn vay 07 tháng với số tiền 189.000.000 đồng là 1%/tháng x 7 tháng = 13.230.000 đồng.

[2.2.3] Về số tiền lãi quá hạn: Phía nguyên đơn yêu cầu 150% của lãi trong hạn tính từ ngày 09/3/2018 đên ngày 22/4/2022 (thời điểm xét xử sơ thẩm) là phù hợp theo qui định tại điểm b khoản 5 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 “Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, lãi suất quá hạn 49 tháng (tính từ ngày 09/3/2018 đên ngày 22/4/2022) là 189.000.000 đồng x 1,5%/tháng x 49 tháng = 138.915.000 đồng.

Tổng cộng tiền gốc và lãi là 189.000.000 đồng + 138.915.000 đồng + 13.230.000 đồng = 341.145.000 đồng.

[2.3] Bị đơn yêu cầu được trả dần phần nợ nói trên cho nguyên đơn mỗi tháng 1.000.000 đồng nhưng phía nguyên đơn không đồng ý và yêu cầu trả toàn bộ nợ gốc và lãi một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền là 341.145.000 đồng, trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiên đề nghị không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.

[3] Về án phí:

[3.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Hồng Q không phải chịu. Bà Trần Ngọc Ái P phải chịu án phí trên số tiền phải thi hành theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 và Nghị quyêt 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[3.2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm nên bà Trần Ngọc Ái P phải chịu án phí dân sự phúc thẩm nhưng được cấn trừ số tiền án phí đã tạm nộp theo qui định tại khoản 2 Điều 29 Nghị quyêt 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ Nghị quyêt 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Trần Ngọc Ái P.

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 617/2022/DS-ST ngày 22/4/2022 của Toà án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng Q.

Buộc bà Trần Ngọc Ái P phải trả cho bà Nguyễn Thị Hồng Q tiền nợ gốc là 189.000.000 đồng, tiền lãi trong hạn là 13.230.000 đồng, lãi quá hạn là 138.915.000 đồng; tổng số tiền là 341.145.000 (Ba trăm bốn mươi mốt triệu một trăm bốn mươi lăm ngàn) đồng.

Các bên thi hành ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nêu bị đơn chưa thi hành số tiền nêu trên thì hàng tháng bị đơn còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí:

Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Hồng Q được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Trần Ngọc Ái P phải nộp là 17.057.250 đồng tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trần Ngọc Ái P phải chịu số tiền 300.000 đồng nhưng được cấn trừ theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0049676 ngày 10/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp bản án, quyêt định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chê thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 437/2022/DS-PT

Số hiệu:437/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:02/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về