TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 18/2021/DSPT NGÀY 29/10/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Trong ngày 29 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 156/2021/TLPT- DS ngày 08/7/2021 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 64/2021/DS-ST ngày 31/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 04/2021/QĐ-PT ngày 05 tháng 10 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Đặng Thị Diễm P, sinh năm 1974; nơi cư trú thôn V, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định; có mặt.
- Bị đơn: Bà Võ Thị Hồng S, sinh năm 1975; nơi cư trú thôn V, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Mai Văn Q, sinh năm 1972;
nơi cư trú: thôn V, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định.
Đại diện theo uỷ quyền của ông Mai Văn Q: Bà Võ Thị Hồng S; thôn V, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định; có mặt. (Theo văn bản ủy quyền ngày 28/10/2021) Người kháng cáo nguyên đơn bà Võ Thị Hồng S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 25 tháng 02 năm 2021, tại lời khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Đặng Thị Diễm P trình bày:
Bà và vợ chồng ông Mai Văn Q, bà Võ Thị Hồng S có mối quan hệ bà con họ hàng với nhau. Vào ngày 18 tháng 02 năm 2015, bà Võ Thị Hồng S đến nhà của bà vay của bà số tiền 100.000.000 đồng. Mục đích của bà S vay số tiền trên để về mua xe ô tô tải vận chuyển hàng hóa. Khi vay số tiền trên hai bên thỏa thuận lãi suất hàng tháng 1.000.000 đồng trên số tiền vay gốc 100.000.000 đồng. Bà Võ Thị Hồng S cam kết khi nào bà đòi nợ thì bà S có nghĩa vụ trả nợ. Sau khi vay số tiền trên vợ chồng bà S, ông Q đã trả tiền lãi đến tháng 12 năm 2020 và đã trả số tiền 12.000.000 đồng vay gốc. Hiện nay vợ chồng bà S, ông Q còn nợ lại số tiền gốc 88.000.000 đồng. Nay bà khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà S, ông Q có nghĩa vụ trả cho bà số tiền 88.000.000 đồng vay gốc; bà không yêu cầu trả tiền lãi. Ngoài ra bà không yêu cầu và trình bày gì thêm.
Tại lời khai và tại phiên tòa bị đơn bà Võ Thị Hồng S trình bày:
Chồng của bà là ông Mai Văn Q. Bà thừa nhận vào ngày 18 tháng 02 năm 2015, vợ chồng của bà có vay của bà Đặng Thị Diễm P số tiền là 100.000.000 đồng. Vợ chồng bà vay số tiền trên với mục đích để chữa bệnh cho ông Q và chi tiêu trong gia đình. Hai bên thỏa thuận khi nào bà P đòi nợ thì vợ chồng bà có nghĩa vụ trả nợ; tiền lãi hàng tháng vợ chồng bà phải trả 3.000.000 đồng trên 100.000.000 đồng tiền vay gốc. Sau khi vay số tiền trên, vợ chồng bà đã thanh toán tiền lãi cho bà P đến tháng 12 năm 2020 và tính đến tháng 01 năm 2021 vợ chồng bà đã trả cho bà P 12.000.000 đồng vay gốc. Hiện nay vợ chồng bà còn nợ của bà P số tiền 88.000.000 đồng vay gốc. Nay vợ chồng bà đồng ý có nghĩa vụ trả cho bà P số tiền vay gốc 88.000.000 đồng nhưng vì điều kiện kinh tế gia đình khó khăn nên vợ chồng bà xin trả dần hàng tháng với số tiền 2.000.000 đồng. Bà không yêu cầu Tòa án xem xét lại số tiền lãi mà vợ chồng bà đã thanh toán cho bà P. Ngoài ra bà không yêu cầu và trình bày gì thêm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Mai Văn Q không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trong quá trình tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án, tiến hành tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Mai Văn Q.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 64/2021/DS-ST ngày 31/5/202 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định đã quyết định:
Căn cứ vào các điều 357, 463, 466, 468, 469 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/PL-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Buộc vợ chồng bà Võ Thị Hồng S, ông Mai Văn Q có nghĩa vụ trả cho bà Đặng Thị Diễm P số tiền 88.000.000 đồng (Tám mươi tám triệu đồng) vay gốc.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên lãi suất chậm thi hành án, án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 09/6/2021, bị đơn bà Võ Thị Hồng S kháng cáo xin trả nợ cho bà Đặng Thị Diễm P mỗi tháng 5.000.000đ.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm, Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng khác cũng như các bên đương sự đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đơn kháng cáo hợp lệ, thủ tục kháng cáo đúng theo quy định của pháp luật.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Võ Thị Hồng S. Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của bị đơn bà Võ Thị Hồng S trong hạn luật định, hình thức và nội dung đơn đúng quy định nên được Hội đồng xét xử xem xét.
[2] Tại phiên tòa, bị đơn bà Võ Thị Hồng S vẫn giữ nguyên kháng cáo xin trả nợ cho bà Đặng Thị Diễm P mỗi tháng 5.000.000đ. Xét kháng cáo của bà Võ Thị Hồng S, Hội đồng xét xử thấy rằng: Ngày 18 tháng 02 năm 2015, vợ chồng bà Võ Thị Hồng S, ông Mai Văn Q có vay của bà Đặng Thị Diễm P số tiền 100.000.000 đồng. Đến tháng 01 năm 2021, vợ chồng bà Võ Thị Hồng S, ông Mai Văn Q đã trả được 12.000.000 đồng tiền gốc, hiện nay vợ chồng bà Võ Thị Hồng S, ông Mai Văn Q còn nợ của bà Đặng Thị Diễm P số tiền 88.000.000 đồng vay gốc. Nội dung nay đều được nguyên đơn, bị đơn thừa nhận trong quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà Sơn và ông Mai Văn Q cùng trả nợ số tiền 88.000.000 đồng vay gốc, bà P không yêu cầu tính lãi. Bà S kháng cáo xin trả dần mỗi tháng 5.000.000đ nhưng tại phiên tòa nguyên đơn bà Đặng Thị Diễm P không đồng ý việc trả dần mà yêu cầu trả một lần. Do đó căn cứ Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị đơn Võ Thị Hồng S. Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[4] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Võ Thị Hồng S.
[5] Về án phí:
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Kháng cáo của bị đơn bà Võ Thị Hồng S không được chấp nhận nên bà S phải chịu 300.000đ á phí dân sự phúc thảm theo quy định của pháp luật.
[6] Phát biểu của đại diện VKSND tỉnh Bình Định tại phiên tòa về việc tuân thủ theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng là đúng quy định của pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định như trên của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 147, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Võ Thị Hồng S.
Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm số 64/2021/DS-ST ngày 31/5/202 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định.
1. Buộc vợ chồng bà Võ Thị Hồng S, ông Mai Văn Q có nghĩa vụ trả cho bà Đặng Thị Diễm P số tiền 88.000.000 đồng (Tám mươi tám triệu đồng) vay gốc.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Về án phí: Bà Võ Thị Hồng S phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền số 0008342 ngày 09/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Bình Định.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 18/2021/DSPT
Số hiệu: | 18/2021/DSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về