Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 28/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 28/2022/DS-ST NGÀY 24/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 5 năm 2022. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh Đăk Lăk; xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 242/2021/TLST-DS, ngày 26/5/2021, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2022/QĐXXST-DS, ngày 20 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2022/QĐST-DS ngày 06/5/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Dương Thị H Địa chỉ: Thôn ĐK, xã EA, huyện Cm, tỉnh Đăk Lăk

- Bị đơn: Bà H Br A và ông Y B N K Địa chỉ: Buôn H, xã E Đ, huyện CM, tỉnh Đăk Lăk - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Ông Y D A, bà H N N Địa chỉ: Buôn T, xã E Đ, huyện CM, tỉnh Đăk Lăk

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Dương Thị H trình bày:

Ngày 25/12/2018, vợ chồng ông Y B N K và bà H Br A vay của tôi số tiền 380.000.000đ để đáo hạn ngân hàng với lãi suất thỏa thuận miệng là 1%/tháng, hẹn đến ngày 26/12/2018 sẽ trả cho tôi.

Khi vay thì ông Y B N K và bà H Br A có thế chấp cho tôi gồm:

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa số 92 tờ bản đồ số 16 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 725623 do Ủy ban nhân dân huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk cấp, thửa đất tọa lạc tại xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk;

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa số 192 tờ bản đồ số 5 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 725622 do Ủy ban nhân dân huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk cấp, thửa đất tọa lạc tại xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk;

Giấy chứng minh nhân dân số 240641733 do Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 09/4/2014 mang tên Y B N K và Giấy chứng minh nhân dân số 240641622 do Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 09/4/2014 mang tên H Br A.

Nhiều lần tôi đã yêu cầu vợ chồng ông Y B N K và bà H Br A trả lại cho tôi số tiền 380.000.000đ nhưng vợ chồng ông Y B N K và bà H Br A không chịu trả cho tôi, thường xuyên né trách làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của tôi, ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế gia đình tôi.

Nay tôi yêu cầu ông Y B N K và bà H Br A có nghĩa vụ trả dứt điểm cho tôi số tiền 380.000.000đ và lãi suất 1%/tháng.

* Tại bản tự khai, quá trình hòa giải của bị đơn bà H Br A trình bày:

Tôi và bà H có mối quan hệ quen biết nên vợ chồng tôi có vay của bà Dương Thị H số tiền 350.000.000đ nhưng chúng tôi thống nhất ghi trong giấy là 380.000.000đ, số tiền vay trên mục đích là chúng tôi trả nợ cho ngân hàng. Lý do số tiền trên vợ chồng tôi không trả được cho bà H là vì khi trả xong cho Ngân hàng thì ngân hàng không cho vợ chồng tôi vay nữa nên không thể trả được cho bà H, năm 2020 thì chồng tôi chết nên mình tôi chưa trả được cho bà H. Về lãi thì các bên có thỏa thuận lãi bằng miệng không viết giấy nay bà H yêu cầu lãi suất 1%/tháng thì tôi đồng ý.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Y D A, bà H N Niê: Tại bên bản xác minh ngày 01/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar đối với ông Y D A, bà H N N tại địa phương thì Công an xã Ea Đrơng thì được biết ông Y DA, bà H N N thường xuyên vắng mặt trong giờ hành chính nên không làm việc được với ông Y D A, bà H N Niê.

Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện bà H Br A có nghĩa vụ trả cho bà Dương Thị H số tiền 380.000.000đ và lãi suất 1%/tháng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar phát biểu ý kiến về việc tuân thủ các quy định của Bộ tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, cũng như những người tham gia tố tụng và quan điểm về việc giải quyết vụ án:

- Đối với Thẩm phán: Trong quá trình chuẩn bị xét xử; Thẩm phán đã tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, thẩm phán còn vi phạm thời hạn xét xử - Đối với Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa: Tuân thủ đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với đương sự:

Nguyên đơn: Thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70; Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn: Thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70; Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung vụ án:

Ngày 25/12/2018, vợ chồng ông Y B N K và bà H Br A có vay của bà Dương Thị H số tiền là 380.000.000 đồng và thỏa thuận lãi suất 1%/tháng, việc vay nợ giữa hai bên là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật, khi vay giữa hai bên lập hợp đồng vay hẹn đến ngày 26/12/2018 thì ông Y B N K và bà H Br A có nghĩa vụ trả cho bà Dương Thị H. Ngày 15/01/2020 ông Y B N K chết không để lại di chúc và hiện nay bà H Br A vẫn đang quản lý tài sản của ông Y B N K. Khi vay thì ông Y B N K và bà H Br A có giao cho bà H 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và 02 chứng minh nhân dân.

Từ những căn cứ nói trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 463, Điều 465 và Điều 466, khoản 2 Điều 468 và Điều 615 Bộ luật dân sự;

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bà H Br A vợ ông Y B N K là người vay và người đang quản lý tài sản phải có nghĩa vụ trả cho bà Dương Thị H số tiền gốc là 380.000.000 đồng và lãi suất 1%/tháng kể từ ngày vay đến ngày xét xử.

Bà Dương Thị H có nghĩa vụ trả cho bà H Br A 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và 02 chứng minh nhân dân mà bà Dương Thị H đã nhận khi cho ông Y B N K và bà H Br A vay tiền.

Bà H Br A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và các chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên.

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Bà Dương Thị H cho ông Y B N K và bà H Br A vay tiền nên đây là quan hệ tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Ông Y B N K chết trước khi thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên đã phát sinh quan hệ tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Bà H Br A có địa chỉ thường trú tại xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk. Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyên Cư Mgar nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa và Tòa án đã triệu tập hợp lệ người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt.

[2]Về nội dung:

[2.1] Ngày 25/12/2018 bà H Br A và ông Y B N K có ký hợp đồng vay của bà Dương Thị H số tiền là 380.000.000 đồng, việc vay nợ giữa hai bên được các bên ký kết là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 463 Bộ Luật dân sự. Đến thời hạn trả nợ bà H Br A và ông Y B N K không thực hiện nghĩa vụ là vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay, được quy định tại điều 466 Bộ Luật dân sự.

[2.2] Khi ông Y B N K và bà H Br A vay của bà Dương Thị H số tiền 380.000.000đ thì ông Y B N K và bà H Br A có giao cho bà Dương Thị H 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và 02 chứng minh nhân dân, việc giao các giấy tờ trên giữa các bên không ký hợp đồng thế chấp tài sản để đảm bảo khoản vay 380.000.000đ mà chỉ để bà H làm tin. Ngày 18/2/2022 Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar đã xác minh tài sản ông Y B N K chết để lại tại chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Cư Mgar, tài sản gồm có: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa số 92, tờ bản đồ số 16 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 725623 do Ủy ban nhân dân huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 25/4/2014, thửa đất tọa lạc tại xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk mang tên ông Y B N K, bà H Br A và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa số 192 tờ bản đồ số 5 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 725622 do Ủy ban nhân dân huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 25/4/2014, thửa đất tọa lạc tại xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk mang tên ông Y B N K, bà H Br A.

Ông Y B N K và bà H Br A chưa trả nợ được cho bà Dương Thị H thì ông Y B N K chết vào ngày 10/3/2020 và không để lại di chúc nên Tòa án tiến hành xác minh hàng thừa kế của ông Y B N K gồm có: vợ là bà H Br A, các con ông Y B N K là cháu H Q A; sinh ngày 06/6/2004 và cháu Y C A sinh năm 2010 hiện nay các cháu đang còn nhỏ chưa đủ 18 tuổi.

ông Y B N K có bố là ông Y D A, mẹ là bà H N N được tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không hợp tác nên đã từ bỏ quyền lợi của mình. Do do, tài sản của ông Y B N K để lại hiện do bà H Br A đang trực tiếp quản lý và sử dụng.

Vì vậy, cần buộc bà H Br A thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà Dương Thị H là phù hợp với quy định tại Điều 615 Bộ luật dân sự.

[2.3] Về lãi suất:

Trong hợp đồng vay giữa bà Dương Thị H với ông Y B N K, bà H Br A không thỏa thuận lãi suất. Tuy nhiên, các bên đều thừa nhận có thỏa thuận lãi suất 1%/tháng nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện về phần lãi suất của nguyên đơn từ ngày 25/12/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm. Cụ thể:

380.000.000 đồng x 1%/tháng x 40 tháng 29 ngày = 155.673.000 đồng (làm tròn số).

Tổng số tiền gốc và lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm là:

380.000.000 + 155.673.000đ = 535.673.000đ

[2.4] Đối với 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và 02 chứng minh nhân dân hiện nay bà H đang giữ. Do đó, bà Dương Thị H có nghĩa vụ trả lại 02 giấy gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa số 92, tờ bản đồ số 16 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 725623 do Ủy ban nhân dân huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 25/4/2014, thửa đất tọa lạc tại xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk mang tên ông Y B N K, bà H Br A và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa số 192 tờ bản đồ số 5 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 725622 do Ủy ban nhân dân huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 25/4/2014, thửa đất tọa lạc tại xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk mang tên ông Y B N K, bà H Br A; 01 giấy gốc Giấy chứng minh nhân dân số 240641733 do Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 09/4/2014 mang tên Y B N K và 01 giấy gốc Giấy chứng minh nhân dân số 240641622 do Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 09/4/2014 mang tên H Br A cho bà H Br A.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên không phải chịu án phí và được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư M’Gar, tỉnh Đăk Lăk.

Bà H Br A phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật, cụ thể: 400.000.000đ x 5% = 20.000.000đ (535.800.000đồng – 400.000.000 đồng) x 4% = 5.426.000đ đồng (đã làm tròn).

Tổng số tiền án phí là: 20.000.000đ + 5.426.000đ = 25.426.000đ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng Điều 463, Điều 465, Điều 466; Điều 468, Điều 613, Điều 614, Điều 615 Bộ luật dân sự.

- Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/10/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu,miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Dương Thị H.

Buộc bà H Br A phải có nghĩa vụ trả cho bà Dương Thị H khoản tiền nợ là 535.673.000đ (trong đó tiền gốc là 380.000.000 đồng và lãi suất là 155.673.000 đồng).

Bà Dương Thị H có nghĩa vụ trả lại 02 giấy gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa số 92, tờ bản đồ số 16 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 725623 do Ủy ban nhân dân huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 25/4/2014, thửa đất tọa lạc tại xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk mang tên ông Y B N K, bà H Br A và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại thửa số 192 tờ bản đồ số 5 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 725622 do Ủy ban nhân dân huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 25/4/2014, thửa đất tọa lạc tại xã Ea Đrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đăk Lăk mang tên ông Y B N K, bà H Br A; 01 giấy gốc Giấy chứng minh nhân dân số 240641733 do Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 09/4/2014 mang tên Y B N K và 01 giấy gốc Giấy chứng minh nhân dân số 240641622 do Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 09/4/2014 mang tên H Br A cho bà H Br A.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

* Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng:

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Trả lại cho bà Dương Thị H khoản tiền 11.778.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai số AA/2021/0001147, ngày 17/5/2021, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư M’Gar, tỉnh Đăk Lăk.

Bà H Br A phải nộp 25.426.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

100
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 28/2022/DS-ST

Số hiệu:28/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về