Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 19/2023/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA HƯNG, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 19/2023/DS-ST NGÀY 29/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện N tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 13/2023/TLST - TCDS ngày 11 tháng 4 năm 2023 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2023/QĐXXST - TCDS ngày 04 tháng 5 năm 2023 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Ngô Thị B – Sinh năm 1977; Nơi cư trú: Đội X, xã H, huyện N0, tỉnh Đ.

* Bị đơn: Anh Lương Văn A – Sinh năm 1971;

Chị Nguyễn Thị D – Sinh năm 1974;

Nơi cư trú: Đội X, xã H, huyện N0, tỉnh Đ.

Tại phiên tòa có mặt chị B, anh A và chị D.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 17 tháng 3 năm 2023 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà chị Ngô Thị B trình bày: Chị và vợ chồng anh Lương Văn A chị Nguyễn Thị D không có quan hệ họ hàng gì với nhau nhưng chị và chị Nguyễn Thị D là bạn bán hàng ở chợ với nhau. Do chỗ bạn bè thân quen nên chị đã cho vợ chồng anh Lương Văn A chị Nguyễn Thị D vay số tiền cụ thể như sau:

Ngày 19/3/2022 (Tức ngày 17/02/2022 Âm lịch) anh A chị D mượn chị số tiền là: 700.00.000 đồng (Bảy trăm triệu đồng).

Ngày 15/6/2022 (Tức ngày 17/05/2022 Âm lịch) anh A chị D mượn chị số tiền là: 100.00.000 đồng (Một trăm triệu đồng).

Ngày 19/7/2022 (Tức ngày 21/6/2022 Âm lịch) anh A chị D mượn chị số tiền là: 50.00.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).

Ngày 14/9/2022 (Tức ngày 19/08/2022 Âm lịch) anh A chị D mượn chị số tiền là: 60.00.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng).

Ngày 12/10/2022 (Tức ngày 17/09/2022 Âm lịch) anh A chị D mượn chị số tiền là: 110.00.000 đồng (Một trăm mười triệu đồng).

Các lần thỏa thuận mượn nợ chị D là người đến trực tiếp hỏi vay chị và anh A cũng biết về việc đó. Khi vay chị D và chị có lập giấy mượn tiền với nhau và có chữ ký của chị D và hai bên thỏa thuận lãi suất miệng với nhau là 1,5%/tháng. Sau đó, chị cũng thông báo việc vay tiền giữa chị và chị D cho anh A biết. Tất cả những lần vay mượn anh A chị D cam kết với chị khi nào chị cần sử dụng đến, anh A chị D sẽ trả lại toàn bộ số tiền trên cho chị.

Ngày 18/01/2023 (Tức ngày 27/12/2022 Âm lịch) anh A chị D trả cho chị số tiền là: 280.00.000 đồng (Hai trăm tám mươi triệu đồng). Tính đến thời điểm này, anh A chị D còn vay của chị số tiền là: 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng). Đến đầu năm 2023 do làm ăn khó khăn nên vợ chồng anh A chị D tuyên bố vỡ nợ và không có tiền thanh toán tiền nợ gốc và lãi cho chị. Mặc dù chị đã nhiều lần yêu cầu anh A chị D thanh toán số nợ gốc còn lại là 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng) nhưng anh A chị D đề nghị bán đất sẽ thanh toán cho chị. Nay chị đề nghị Tòa án Nhân dân huyện N yêu cầu vợ chồng anh Lương Văn A chị Nguyễn Thị D thanh toán số tiền vay còn lại của chị là: 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng) và không yêu cầu tính lãi.

Về hình thức thanh toán: Chị Ngô Thị B yêu cầu vợ chồng anh Lương Văn A và chị Nguyễn Thị D phải thanh toán toàn bộ số gốc cho chị theo quy định.

Lời khai của anh Lương Văn A và chị Nguyễn Thị D tại các buổi làm việc với tòa án cũng như tại phiên tòa trình : Vợ chồng anh chị và chị Ngô Thị B không có quan hệ họ hàng gì với nhau nhưng chị D và chị B là bạn bán hàng với nhau. Trong quá trình làm ăn kinh tế thì vợ chồng anh chị có vay của chị Ngô Thị B tổng số tiền 1.020.000.000 đồng (Một tỷ không tră m hai mươi triệu đồng) cụ thể như chị Ngô Thị B đã trình bày và hai bên thỏa thuận lãi suất miệng với nhau là 1,5%/tháng. Sau khi vay mượn vợ chồng chị đã thanh toán cho chị Ngô Thị B được 280.000.000 đồng (Hai trăm tám mươi triệu đồng). Tổng số tiền anh chị còn nợ chị Ngô Thị B số tiền là 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng). Sau đó, do làm ăn xảy ra vỡ nợ nên vợ chồng chị không có khả năng thanh toán cho chị B số tiền vay còn lại. Khi sự việc xảy ra vợ chồng chị cùng 20 chủ nợ có họp với nhau và vợ chồng chị cũng xác nhận là vợ chồng chị còn nợ chị Ngô Thị B số tiền 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng). Nay chị Ngô Thị B yêu cầu vợ chồng chị số tiền 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng) và không yêu cầu tính lãi thì vợ chồng chị nhất trí vợ chồng chị còn nợ chị Ngô Thị B số tiền 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng).

Về hình thức thanh toán: Anh Lương Văn A và chị Nguyễn Thị D xác định do làm ăn khó khăn nên anh chị xin để bán đất rồi thanh toán số nợ cho chị Ngô Thị B.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

+ Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến xét xử tại phiên toà hôm nay Thẩm phán thụ lý giải quyết cũng như Hội đồng xét xử đã cơ bản thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung: Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng các điều 463; 466; 469 và 357 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc: Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị B. Buộc vợ chồng anh Lương Văn A và chị Nguyễn Thị D phải thanh toán cho chị Ngô Thị B số tiền gốc là 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng); Về án dân sự sơ thẩm đề nghị tuyên theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Toà án nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ đơn khởi kiện, lời khai của các bên đương sự có đủ cơ sở khẳng định đây là vụ kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản do vậy thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N theo Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ tranh chấp:

Căn cứ tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn là chị Ngô Thị B cung cấp là 01 bản gốc “Giấy mượn tiền” có nội dung ghi cô D (A) mượn B tiền. Tại giấy mượn tiền đều không ghi lãi suất và không ghi thời hạn trả nợ; có chữ ký, chữ viết của người vay là chị Nguyễn Thị D nhưng hai bên thỏa thuận miệng với nhau với mức lãi suất là 1,5%/tháng, nên đây là hợp đồng vay tài sản có lãi, không có thời hạn. [2.2] Về số tiền vay:

Căn cứ vào 01 bản gốc “Giấy mượn tiền” ghi các ngày 19/3/2022 (Tức ngày 17/02/2022 Âm lịch), ngày 15/6/2022 (Tức ngày 17/05/2022 Âm lịch), ngày 19/7/2022 (Tức ngày 21/6/2022 Âm lịch), ngày 14/9/2022 (Tức ngày 19/08/2022 Âm lịch) có nội dung ghi cô D (A) mượn B tiền. Tổng những lần vay tiền theo giấy mượn tiền là 1.020.000.000 đồng (Một tỷ không trăm hai mươi triệu đồng). Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay anh Lương Văn A và chị Nguyễn Thị D đều xác định đây là khoản vay chung của hai vợ chồng anh chị để làm ăn. Từ khi vay đến nay vợ chồng anh A chị D đã thanh toán cho chị Ngô Thị B được 280.000.000 đồng (Hai trăm tám mươi triệu đồng) tiền gốc. Tổng những lần vay tiền theo giấy mượn tiền tiền là 1.020.000.000 đồng (Một tỷ không trăm hai mươi triệu đồng). Tại giấy mượn tiền đều không ghi lãi suất và không ghi thời hạn trả nợ, nhưng hai bên thỏa thuận miệng với nhau với mức lãi suất là 1,5%/tháng. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay các đương sự đều thống nhất xác định anh Lương Văn A và chị Nguyễn Thị D đã vay của chị Ngô Thị B số tiền 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng) là có thật.

Đến đầu năm 2023 do làm ăn khó khăn nên vợ chồng anh A chị D tuyên bố vỡ nợ và không có tiền thanh toán tiền nợ gốc và lãi cho chị B. Mặc dù chị B đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng anh A chị D thanh toán số nợ gốc còn lại là 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng) cho chị nhưng anh A chị D đề nghị bán đất sẽ thanh toán cho chị B. Nay chị B yêu cầu vợ chồng anh Lương Văn A chị Nguyễn Thị D thanh toán số tiền vay còn lại của chị là: 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng). Phía anh A chị D cũng xác nhận còn vay của chị B số tiền 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng). Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N có quan điểm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, căn cứ Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015 có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị B về việc yêu cầu vợ chồng anh Lương Văn A và chị Nguyễn Thị D phải thanh toán số nợ gốc cho chị là 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng).

[2.3] Về lãi suất: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Ngô Thị B không yêu cầu tính lãi suất nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Anh Lương Văn A và chị Nguyễn Thị D phải nộp án phí dân sự sơ thẩm quy định của pháp luật.

Do yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị B được chấp nhận, nên chị B không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[4] Về quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện N là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 357, 463, 466, 468 và 469 Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều 147, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 6, 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1.       Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị B, cụ thể: Buộc vợ chồng anh Lương Văn A và chị Nguyễn Thị D phải thanh toán cho chị Ngô Thị B số nợ gốc đã vay là 740.000.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi triệu đồng).

Sau khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày chị Ngô Thị B có đơn yêu cầu thi hành án mà anh Lương Văn A, chị Nguyễn Thị D chưa thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc anh Lương Văn A và chị Nguyễn Thị D phải nộp 37.000.000 đồng (Ba mươi bảy triệu đồng).

Chị Ngô Thị B không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả chị Ngô Thị B số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 10.000.000 đồng theo biên lai số 0000925 ngày 11 tháng 3 năm 2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N Án xử công khai có mặt chị B, anh A và chị D. Báo cho người có mặt biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì nguyên đơn, người có quyền lợi liên quan và bị đơn có quyền thỏ a thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 19/2023/DS-ST

Số hiệu:19/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Hưng - Nam Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về