Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 16/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 16/2022/DS-ST NGÀY 08/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 31/2022/TLST-DS ngày 18 tháng 4 năm 2022, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2022/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Võ Văn D và bà Nguyễn Thị Thùy Tr; địa chỉ: Số V155 đường Lê B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Võ Ngọc M và bà Mai Thị Tuyết Nh; cùng địa chỉ: Số 04 đường Bến H, Phường I, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Giấy ủy quyền ngày 04/4/2022) - Có mặt.

- Bị đơn: Ông Đào Thanh X và bà Trần Thị Minh Ng; địa chỉ: Khu phố X2, phường Đông L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị - Ông X có mặt, bà Ng có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện ngày 31/01/2019, biên bản hòa giải ngày 16/5/2022 và tại phiên tòa nguyên đơn và đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Ngày 29/01/2019, vợ chồng ông Võ Văn D, bà Nguyễn Thị Thùy Tr và vợ chồng ông Đào Thanh X, bà Trần Thị Minh Ng hai bên đã lập Hợp đồng vay tiền. Theo đó, ông D, bà Tr cho ông X, bà Ng vay số tiền 420.000.000 đồng, khi cho vay hai bên không có thỏa thuận về lãi suất.

Mục đích cho vay là nhằm đảm bảo việc hai bên tiến hành chuyển quyền sử dụng đất đối với thửa đất mà ông X, bà Ng hiện đang ở sát phía sau nhà ông D, bà Tr. Do ông X, bà Ng đang trong quá trình làm thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên để tạo điều kiện cho ông X, bà Ng dễ dàng xử lý các vấn đề liên quan nên ông D, bà Tr đã cho ông X, bà Ng vay số tiền trên. Hai bên cam kết bằng miệng là sau khi làm được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì sẽ chuyển nhượng cho ông D, bà Tr với giá 1.200.000.000 đồng, số tiền 420.000.000 đồng cho vay coi như là tiền trả trước, phần còn lại sẽ thanh toán khi lập hợp đồng chuyển nhượng. Sau đó, ông D, bà Tr tiếp tục cho ông X, bà Ng vay thêm số tiền 50.000.000 đồng, tổng cộng 470.000.000 đồng.

Tuy nhiên, từ khi hết thời hạn cho vay là ngày 28/6/2019 đến nay, ông X và bà Ng không trả lại tiền vay và không thực hiện cam kết của mình. Vợ chồng ông D, bà Tr nhiều lần thúc giục ông X, bà Ng hoàn tất thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để hai bên tiến hành ký kết và thực hiện việc chuyển nhượng, nhưng ông X, bà Ng đã cố tình chây ỳ không tiến hành và có ý không muốn chuyển nhượng cho ông D, bà Tr nữa.

Nay, ông Võ Văn D và bà Nguyễn Thị Thùy Tr khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Đào Thanh X và bà Trần Thị Minh Ng có nghĩa vụ trả nợ tiền vay và tiền lãi với tổng số tiền 592.010.000 đồng, trong đó:

Số tiền nợ gốc là 470.000.000 đồng (420.000.000 đồng theo Hợp đồng vay tiền ngày 29/01/2019 và 50.000.000 đồng vay các lần sau).

Tiền lãi chỉ tính từ ngày 29/6/2019 đến 29/5/2022 là 35 tháng, với số tiền là 122.010.000 đồng (420.000.000 đồng x 0,83%/tháng, x 35 tháng = 122.010.000 đồng).

2. Tại Đơn xin trình bày đề ngày 23/4/2022, bị đơn ông Đào Thanh X và bà Trần Thị Minh Ng trình bày:

Vợ chồng chúng tôi có vay vợ chồng ông D và bà Tr số tiền 470.000.000 đồng, lý do vay là để lo cho con ra nước ngoài và có ý định bán mảnh đất mà ông, bà đang ở cho ông D, bà Tr; tại phiên hòa giải ngày 16/5/2022, ông Đào Thanh X cũng trình bày: Để lo cho con đi du học nước ngoài nên vợ chồng ông đã vay của vợ chồng ông D, bà Tr số tiền 420.000.000 đồng và sau đó vay thêm nhiều lần với số tiền là 50.000.000 đồng.

Tại phiên tòa ông Đào Thanh X đồng ý trả toàn bộ khoản nợ tiền vay cho ông D, bà Tr là 470.000.000 đồng. Riêng tiền lãi, ông X chỉ đồng ý trả tiền lãi theo mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: [1]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa bị đơn bà Trần Thị Minh Ng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất nhưng vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ tranh chấp: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn ông D, bà Tr khởi kiện yêu cầu bị đơn ông X, bà Ng phải trả nợ tiền vay phát sinh từ hợp đồng vay tài sản, do đó quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

[3]. Về thẩm quyền: Bị đơn ông Đào Thanh X và bà Trần Thị Minh Ng có địa chỉ cư trú tại: Khu phố X2, phường Đông L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn D và bà Nguyễn Thị Thùy Tr về việc yêu cầu bị đơn ông Đào Thanh X, bà Trần Thị Minh Ng phải trả nợ với số tiền 592.010.000 đồng, trong đó; nợ tiền gốc 470.000.000 đồng; nợ tiền lãi 122.010.000 đồng (420.000.000 đồng x 0,83%/tháng x 35 tháng = 122.010.000 đồng). Hội đồng xét xử xét thấy:

Đối với yêu cầu trả nợ tiền gốc đã vay, căn cứ Hợp đồng vay tiền lập ngày 29/01/2019 cho thấy: Ngày 29/01/2019, ông Võ Văn D và bà Nguyễn Thị Thùy Tr đã cho ông Đào Thanh X và bà Trần Thị Minh Ng vay số tiền 420.000.000 đồng, thời hạn cho vay là 05 tháng, kề từ ngày 28/01/2019 đến ngày 28/6/2019 và tại mặt sau của Hợp đồng vay tiền lập ngày 29/01/2019 thể hiện, bà Trần Thị Minh Ng tiếp tục ký vay nợ thêm 03 lần của ông D, bà Tr với số tiền 40.000.000 đồng, cụ thể: Ngày 07/3/2019 vay số tiền 5.000.000 đồng; ngày 17/3/2019 vay số tiền 25.000.000 đồng; ngày 26/6/2019 vay số tiền 10.000.000 đồng. Ngoài ra, ông D, bà Tr còn cho ông X, bà Ng vay thêm 10.000.000 đồng, không có ký nhận giấy tờ, tổng cộng 470.000.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, ông X và bà Ng đã thừa nhận, ông X, bà Ng có vay của ông D, bà Tr với tổng số tiền 470.000.000 đồng. Do đó, có đủ cơ sở xác định, ông X và bà Ng đã vay của ông D, bà Tr tổng số tiền 470.000.000 đồng. Tuy nhiên, do quá thời hạn trả nợ và nhiều lần ông D, bà Tr yêu cầu ông X, bà Ng trả nợ nhưng ông X, bà Ng không trả. Vì vậy, ông D, bà Tr khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc ông X, bà Ng phải trả nợ số tiền gốc đã vay với số tiền 470.000.000 đồng là có căn cứ cần chấp nhận.

Đối với yêu cầu trả tiền lãi thấy rằng: Ngày 29/01/2019, ông D, bà Tr đã cho ông X, bà Ng vay số tiền 420.000.000 đồng, khi cho vay hai bên thỏa thuận thời hạn cho vay là 05 tháng, kề từ ngày 28/01/2019 đến ngày 28/6/2019, không có thỏa thuận về lãi suất cho vay. Nhưng khi đến thời hại trả nợ tiền vay, do ông X, bà Ng không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ tiền vay theo cam kết tại hợp đồng lập ngày 29/01/2019. Do đó, ông D, bà Tr yêu cầu ông X, bà Ng phải trả tiền lãi với mức lãi suất 10%/năm, tương ứng với 0,83%/tháng tính từ ngày chậm trả 29/6/2019 đến ngày 29/5/2022 là 35 tháng trên số tiền chậm trả 420.000.000 đồng, tương ứng với số tiền 122.010.000 đồng (420.000.000 đồng x 0,83%/tháng x 35 tháng = 122.010.000 đồng) là có căn cứ cần chấp nhận.

Tại phiên tòa bị đơn ông Đào Thanh X đề nghị xem xét áp dụng tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng là không có sở nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

Như vậy, tổng số tiền cần buộc ông X, bà Ng phải có nghĩa vụ trả nợ cho ông D, bà Tr là 592.010.000 đồng; trong đó: Nợ tiền gốc 470.000.000 đồng, nợ tiền lãi 122.010.000 đồng.

Đối với khoản tiền vay thêm 50.000.000 đồng, do ông D, bà Tr không yêu cầu ông X, bà Ng phải trả tiền lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí:

- Nguyên đơn ông D, bà Tr khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả nợ số tiền 592.010.000 đồng được Tòa án chấp nhận nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

- Bị đơn ông X, bà Ng là người cao tuổi nên thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định của pháp luật nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 357, 463, 466, 469, 470 của Bộ luật dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn D và bà Nguyễn Thị Thùy Tr, buộc bị đơn ông Đào Thanh X và bà Trần Thị Minh Ng phải trả nợ tiền vay cho ông Võ Văn D và bà Nguyễn Thị Thùy Tr với tổng số tiền 592.010.000 đồng (Năm trăm chín mươi hai triệu không trăm mười nghìn đồng); trong đó: Nợ tiền gốc 470.000.000 đồng (Bốn trăm bảy mươi triệu đồng), nợ tiền lãi 122.010.000 đồng (Một trăm hai mươi hai triệu không trăm mười nghìn đồng).

2. Về án phí:

- Ông Đào Thanh X và bà Trần Thị Minh Ng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (do được miễn án phí theo quy định của pháp luật).

- Ông Võ Văn D và bà Nguyễn Thị Thùy Tr không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho ông Võ Văn D và bà Nguyễn Thị Thùy Tr số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 13.983.000 đồng (Mười ba triệu chín trăm tám mươi ba nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: CC/2021/0000221 ngày 14/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không chịu thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi tương ứng với số tiền chậm thi hành án, tại thời điểm thanh toán. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 16/2022/DS-ST

Số hiệu:16/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về