TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 15/2021/DS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 23/9/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 21/2021/TLST- DS ngày 09/6/2021 vê việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyêt đinh đưa vu án ra xét xử số: 15/2021/QĐXXST-DS ngày 18/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 15/2021/QĐT-DS ngày 07/9/2021 giữa:
- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Đ.
Địa chỉ: xyz, phường r, quận P, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Võ Văn T - Chủ tịch hội đồng quản trị
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh T1 – Tổng giám đốc
Người được ủy quyền lại: Ông Hà Văn H – Giám đốc phòng giao dịch T, Thái Bình.
Người được ủy quyền theo vụ việc: Bà Nguyễn Hoàng Yến N – Cán bộ ngân hàng.
Địa chỉ: abc, phố T (nay là tổ dân phố T), thị trấn T, huyện T, tỉnh Thái Bình.
- Bị đơn: Bà Trần Thị A, sinh năm 1973.
Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1998.
Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình.
(Tại phiên tòa: Bà Ngân có mặt, bà A và chị H vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, quá trình tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa, đại diện Ngân hàng thương mại cổ phần Đ trình bày:
Ngày 12/02/2018, Ngân hàng TMCP Đ– PGD Tiền Hải đã ký kết với bà Trần Thị A hợp đồng tín dụng cho vay trả góp (có đối tác liên kết) thông qua Hội phụ nữ xã N giới thiệu với nội dung như sau:
Số tiền vay: 15.000.000 đông (Bằng chữ: Mười lăm triệu đồng chẵn) Lãi suất trong hạn: 8.5 %/năm (lãi suất tính trên dư nợ ban đầu).
Lãi suất quá hạn: 150% lãi suất trong hạn Thời hạn vay: 18tháng kể từ ngày tiếp theo của ngày bên vay rút khoản vốn vay đầu tiên Mục đích vay: Trồng trọt và chăn nuôi.
Hình thức thanh toán: Nợ gôc va laibên vay trả góp thành 18 kỳ bằng nhau. Hình thức bảo đảm nợ vay: Tín chấp.
Quá trình thực hiện hợp đồng, theo giấy đề nghị vay tiền trả góp kiêm phương án sử dụng vốn (có chữ ký của bà Trần Thị A và người bảo lãnh là chị Vũ Thị H con gái của bà Trần Thị A). Ngân hàng thương mại cổ phần Đ đã thực hiện cho bà A nhận nợ theo hình thức báo có vào tài khoản của bà Trần Thị A mở tại Ngân hàng thương mại cở phần Đông Á số tiền 15.000.000 VNĐ (Mười lăm triệu đồng chẵn) theo chứng từ báo có tài khoản tham chiếu ngày 12/02/2018. Tức là Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền cho bà A. Tuy nhiên bà Trần Thị A chỉ thực hiện nghĩa vụ đối với Ngân hàng cho đến ngày 14/5/2019 tổng số tiền bà A đã trả cho ngân hàng là 8.520.000đồng trong đó tiền trả nợ gốc là 7.222.631đồng và tiền trả nợ lãi là 1.297.369 đồng, tư thang 6/2019 đến nay bà Trần Thị A không thực hiện và không thanh toán khoan tiên phai nôp hang tháng cho Ngân hàng TMCP Đ theo cam kết đa ký. Do đó ngày 13/8/2019 ngân hàng đã chuyển số nợ của bà A sang nợ quá hạn.
Ngân hang TMCP Đ - PGD T đã nhiều lần làm việc , đôn đốc, thông báo và tao điêu kiên cho bà Trần Thị A bố trí nguôn tiên đê tra nơ nhưng đến thời điểm hiện tại bà Trần Thị A vân tiếp tục vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ với Ngân hàng.
Ngân hàng TMCP Đnhận thấy: Bà Trần Thị A vi phạm nghiêm trọng về nghĩa vụ và trách nhiệm đối với Ngân hàng theo cam kêt đã ký làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nay ngân hàng TMCP Đđề nghị Toà án giải quyết các yêu cầu sau:
1. Buộc bà Trần Thị Aphải thanh toán toàn bộ số vốn gốc và lãi vay cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ theo đúng nội dung cam kêt đã ký tính đến ngày xét xử 23/9/2021 là:
Dư nợ gốc là: 7.777.369 đông Lãi trong hạn là: 615.131đồng Lãi quá hạn tính đến ngày 23/9/2021 là: 2.102.766 đồng Tổng là: 10.495.266 đồng Và bà A phải có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ các khoản lãi phát sinh từ ngày 23/9/2021 theo quy định của Hợp đồng vay vốn đã ký cho đến ngày bà A thanh toán xong nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.
Về phía bị đơn là bà Trần Thị A và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Vũ Thị H (người ký bảo lãnh cho khoản vay): Tòa án đã triệu tập bà A và chị H nhiều lần nhưng bà A và chị H không đến Tòa án để làm việc. Tòa án đã về nơi cư trú của bà A và chị H để lấy lời khai và xác minh sự việc.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 09/7/2021 bà Trần Thị A trình bày: Năm 2018 bà có vay của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ số tiền 20.000.000đồng, mục đích vay là để phát triển kinh tế gia đình, lãi suất khi vay là 8,5%/năm vay theo hình thức trả góp và không có tài sản bảo đảm. Sau khi ký kết hợp đồng thì bà chỉ được vay là 18.000.00đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng, thời gian đầu bà trả lãi và gốc đầy đủ (đóng cho chị Huê và chị Thúy có phiếu thu và biên lai đầy đủ) đúng như cam kết trong hợp đồng vay nhưng đến khi còn khoảng 04 tháng nữa do hoàn cảnh khó khăn nên bà không trả được gốc và lãi cho ngân hàng như đã cam kết. Nhưng một thời gian sau đó thì bà lại tiếp tục nộp dần gốc và lãi cho cán bộ ngân hàng xuống thu mỗi lần là 500.000đồng và đã nộp hết cả gốc và lãi cho ngân hàng rồi. Lần đóng gốc và lãi cuối cùng cho ngân hàng vào khoảng giữa năm 2019, vì nộp nhỏ lẻ nên khi nộp không phiếu thu mà chỉ ghi vào sổ nên đến nay bà không cung cấp cho Tòa án được các phiếu thu mà bà đã nộp tiền cho ngân hàng. Nay ngân hàng yêu cầu bà trả gốc và lãi cho ngân hàng thì bà không chấp nhận vì bà đã trả xong cho ngân hàng rồi. Khi ký kết hợp đồng có con gái bà là chị Vũ Thị H ký bảo lãnh cùng, hiện nay chị H đang học trên Hà Nội do dịch bệnh covid nên không thể về được.
Tại biên bản xác minh ngày 09/7/2021 bà Vũ Thị R - Chủ tịch Hội Phụ nữ xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình và bà Vũ Thị Thúy - Chi hội trưởng hội phụ nữ thôn N, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình cung cấp như sau:
Bà Trần Thị A, sinh năm 1970 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn N, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình. Bà Trần Thị A là hội viên của hội liên hiệp phụ nữ xã N, thông qua hội phụ nữ xã, ngân hàng Đông Á có chương trình hỗ trợ cho hội viên vay vốn để phát triển kinh tế hộ gia đình, về thỏa thuận vay vốn cũng như lãi suất hàng tháng dựa trên sự tự nguyện của 02 bên. Theo chương trình này bà A được ngân hàng cho vay số tiền là 15.000.000đồng, lãi suất thời điểm vay là 8,5%/năm, vay theo hình thức trả góp. Thời gian đầu chị Hà Thị Huê là chi hội trưởng hội phục nữ thôn N, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình đi thu lãi và gốc nhưng đến thang 6 năm 2018 chị Huê chết nên chuyển sang cho chị Thúy chi hội trưởng hội phục nữ thôn N, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình thu và sau đó chuyển lại cho cán bộ ngân hàng xuống thu. Khi chị Huê và chị Thúy thu lãi và gốc của bà A thì bà A nộp và có phiếu thu đầy đủ theo đúng quy định. Khi ký hợp đồng vay có con gái bà A là chị Vũ Thị H ký bảo lãnh. Nay đối với tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa bà A và ngân hàng đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:
- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, nguyên đơn đã thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện không đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, 72 và 73 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Đông Á. Buộc bà Trần Thị A phải có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng Đông Á toàn bộ số nợ gốc và lãi theo hợp đồng đã ký kết giữa hai bên. Trường hợp bà A không thanh toán số tiền còn nợ trên, buộc chị Vũ Thị H phải trả số tiền còn nợ trên cho ngân hàng.
Về án phí: Bà Trần Thị A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Xét thấy, tranh chấp giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Đ và bà Trần Thị A là tranh chấp dân sự về hợp đồng. Bị đơn là bà Trần Thị A có hộ khẩu thường trú tại huyện T, tỉnh Thái Bình. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thái Bình đã thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
Bị đơn là bà Trần Thị A, người có quyền, nghĩa vụ liên quan là chị Vũ Thị H đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không có lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bà A và chị H là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung:
2.1. Xét về giá trị pháp lý của của hợp đồng vay tài sản được ký kết giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Đ – chi nhánh Thái Bình với bà Trần Thị A ngày 12/02/2018 thấy: Việc bà Trần Thị Avà Ngân hàng thương mại cổ phần Đ - chi nhánh Thái Bình ký kết hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng, không bên nào bị lừa dối, ép buộc, lãi suất và các nội dung thỏa thuận trong hợp đồng không trái đạo đức xã hội, tuân thủ theo quy định tại Điều 116, 117 và Điều 463 của Bộ luật Dân sự nên được xem là hợp đồng hợp pháp. Do đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên và các bên phải có trách nhiệm thực hiện các thoả thuận đã cam kết trong hợp đồng.
2.3 Xét về yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng đòi tiền nợ gốc và lãi thì thấy: Quá trình thực hiện hợp đồng Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền 15.000.000đồng cho bà Trần Thị A theo đúng thỏa thuận của hợp đồng. Tuy nhiên đến nay bà A mới trả được Ngân hàng tổng số tiền là 8.520.000đồng trong đó tiền trả nợ gốc là 7.222.631đồng và tiền trả nợ lãi là 1.297.369 đồng. Từ tháng 6/2019 bà Trần Thị A không thực hiện và không thanh toán khoan tiên phải nộp hàng tháng cho Ngân hàng TMCP Đtheo cam kết đa ky , mặc dù ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc bà A trả số nợ còn lại cho Ngân hàng nhưng không có kết quả. Bà A cho rằng bà vay của ngân hàng số tiền là 18.000.000 đồng và đã trả hết nợ cho ngân hàng cả gốc và lãi vào khoảng giữa năm 2019 nhưng lại không xuất trình được bất cứ tài liệu, chứng cứ gì khẳng định là bà vay 18.000.000đồng và đã trả nợ hết cho ngân hàng. Theo tài liệu chứng cứ mà ngân hàng cung cấp thì ngân hàng chỉ cho bà A vay số tiền là 15.000.000đồng và chỉ yêu cầu bà trả số tiền gốc và lãi còn lại của 15.000.000 mà bà đã vay, lần thực hiện trả tiền lần cuối của bà A cho ngân hàng là tháng 05/2019 điều này trùng với lời khai của bà A là bà trả nợ cho ngân hàng lần cuối vào khoảng giữa năm 2019. Từ những tình tiết này khẳng định là bà A chỉ được ngân hàng cho vay số tiền là 15.000.000đồng và bà A chưa thanh toán hết nợ gốc và lãi cho ngân hàng, nên người có lỗi và là người vi phạm hợp đồng là bà A nên bà A phải chịu mọi hậu quả theo giao kết và theo quy định của pháp luật. Do đó phía Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số dư nợ của bà A sang nợ quá hạn kể từ ngày ngày 13/8/2019 là đúng theo quy đinh tại khoản 2 Điều 13 của Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng do Ngân hàng Nhà nước ban hành kèm theo Quyết định 1627/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001. Tính đến ngày xét xử (23/9/2021) bà A còn nợ Ngân hàng tổng số tiền là 10.495.266 đồng trong đó nợ gốc là 7.777.369 đồng, lãi trong hạn là 615.131 đồng và lãi quá hạn là 2.102.766đồng. Nay Ngân hàng Đông Á yêu cầu bà A phải trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc và lãi nói trên là có căn cứ và phù hợp với quy định tại các điều 351, 466 Bộ luật Dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Tại đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn chị Vũ Thị H (con gái bà A) ký xác nhận là người bảo lãnh cho khoản vay của người vay là bà Trần Thị A, do đó chị H phải có trách nhiệm đối với khoản vay của bà A: Trong trường hợp bà A không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ hàng kỳ cho ngân hàng thì chị H sẽ phải trả nợ thay cho bà A cho đến khi trả hết nợ cho ngân hàng là phù hợp với quy định tại Điều 342 Bộ luật Dân sự
[3]. Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Đông Á được Tòa án chấp nhận. Vì vậy, Ngân hàng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Bà Trần Thị A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[4]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Các Điều 342, 351, 463, 465, 466, 468 Bộ luật Dân sự. Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Khoản 1 điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mai cổ phần Đ. Buộc bà Trần Thị A phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ các khoản nợ sau:
Nợ gốc là: 7.777.369 đ (Bẩy triệu bẩy trăm bẩy mười bẩy ngàn ba trăm sáu mươi chín đông) Lãi trong hạn là: 615.131đ (Sáu trăm mười lăm ngàn một trăm ba mươi mốt đồng) Lãi quá hạn tính đến ngày 23/9/2021 là: 2.102.766đ (Hai triệu một trăm linh hai ngàn bẩy trăm sáu mươi sáu đồng).
Tổng số tiền nợ gốc, lãi trong hạn và lãi quá hạn tính đến ngày 23/9/2021 bà Trần Thị A phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đ là: 10.495.266 đ (Mười triệu bốn trăm chín mươi lăm ngàn hai trăm sáu mươi sáu đồng).
Trong trường hợp bà A không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng thì chị Vũ Thị H sẽ phải trả nợ thay cho bà A cho đến khi trả hết nợ cho ngân hàng.
“ Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật”.
4. Về án phí: Bà Trần Thị A phải chịu 525.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Trả lại Ngân hàng thương mại cổ phần Đ số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) mà ngân hàng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Thái Bình theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002154 ngày 09/6/2021.
“ Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 của Luật thi hành án dân sự”.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 23/9/2021.
Bị đơn, người có quyền, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 15/2021/DS-ST
Số hiệu: | 15/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về