Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 03/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 03/2022/DS-ST NGÀY 04/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số: 35/2021/TLST- DS ngày 18 tháng 10 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2022/QĐXXST - DS ngày 18 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông ĐVT, sinh năm 1953.

Địa chỉ: Khu Sụ Trong, xã Cự Thắng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Bị đơn: Chị ĐTBT, sinh năm 1989.

Và bà NTTH, sinh năm 1964.

Đều có địa chỉ: Khu Sụ Ngoài, xã Cự Thắng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

(ông T, Chị T có mặt, bà H có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải, lời khai tại Tòa án nguyên đơn ông ĐVT trình bày:

Ngày 01/01/2020 chị ĐTBT và bà NTTH có vay của ông ĐVT số tiền 47.320.000đ (Bốn mươi bảy triệu ba trăm hai mươi nghìn đồng). Khi vay, hai bên thống nhất có làm giấy vay tiền viết tay do Chị T tự viết, Chị T và bà H ký. Hai bên không có thỏa thuận về lãi suất, thời hạn trả nợ là ngày 25/7/2021.Tuy nhiên kể từ khi vay đến nay, Chị T và bà H chưa trả bất kỳ khoản tiền nào cho ông T. Nay ông T yêu cầu bà H và Chị T cùng phải có trách nhiệm trả toàn bộ số tiền vay cho ông T là 47.320.000 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông T yêu cầu tính lãi theo lãi xuất cơ bản của ngân hàng Nhà nước nhưng tại phiên tòa ông T không yêu cầu tính lãi.

Quan điểm của bị đơn - chị ĐTBT: Chị T thừa nhận lời khai của ông T là đúng, khi vay Chị T là người trực tiếp viết giấy vay nợ, ký tên và mẹ chị là bà NTTH cũng ký nhận cùng. Thời hạn trả nợ là 25/7/2021. Tuy nhiên số tiền 47.320.000đ chị vay của ông T là Chị T vay để sử dụng cá nhân, bà H chỉ là người ký vào giấy vay tiền để đảm bảo, bà H không được sử dụng số tiền này. bà H đã bàn giao toàn bộ số nợ này cho Chị T. Do hoàn cảnh khó khăn Chị T chưa trả được. Nay ông T khởi kiện yêu cầu trả tiền nợ gốc Chị T nhất trí, còn lãi do hoàn cảnh khó khăn nên chị xin không tính. Chị T xin được trả dần vì chị chưa có.

Tại bản tự khai ngày 20/01/2022 bà NTTH trình bày: Ngày 01/01/2020 bà H cùng con gái là ĐTBT có vay của ông ĐVT số tiền 47.320.000đ. Khi vay Chị T có viết giấy vay tiền và bà H có ký vào giấy vay tiền đó. Nhưng thực tế số tiền đó là vay cho Chị T, bà không được sử dụng. Sau đó bà H đã bàn giao nợ cho Chị T, có chứng thực của UBND xã. Nay Chị T chưa trả được số tiền nợ cho ông T. Quan điểm của bà H là đề nghị Chị T có trách nhiệm trả toàn bộ số nợ cho ông T vì thực tế bà không được sử dụng. Hiện nay bà H đang bị ốm phải điều trị thường xuyên tại Hà Nội, bà cũng đã nhận được giấy báo của Tòa án nhiều lần nhưng bà không đến được. bà H đề nghị Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn giải quyết vắng mặt bà.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật. Các đương sự: Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 470 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 - Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông ĐVT đối với bà NTTH và chị ĐTBT. Buộc bà NTTH và chị ĐTBT phải trả cho ông ĐVT số tiền nợ gốc là 47.320.000đ (Bốn mươi bảy triệu ba trăm hai mươi nghìn đồng). Trong đó: Buộc bà NTTH phải trả cho ông ĐVT số tiền nợ gốc là: 23.660.000đồng (Hai mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng). Buộc chị ĐTBT phải trả cho ông ĐVT số tiền nợ gốc là: 23.660.000đồng (Hai mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng).

Về lãi suất: Không xem xét do nguyên đơn không yêu cầu.

Về án phí: Chị ĐTBT và bà NTTH phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng: Các đương sự tranh chấp với nhau về việc vay tài sản, xác định đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Bị đơn bà NTTH và chị ĐTBT đều có hộ khẩu thường trú tại xã Cự Thắng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Do đó căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, xác định yêu cầu khởi kiện của ông ĐVT nộp đúng trình tự, thủ tục, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Về việc vắng mặt các đương sự: Bị đơn – bà ĐTTH có đơn xin xét xử vắng mặt. Tại phiên tòa Kiểm sát viên, ông T, chị T đều nhất trí xét xử vắng mặt bà H, đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử. Không ai có ý kiến gì về việc vắng mặt bà H nên HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn bà NTTH theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ Luật Tố tụng Dân sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông T thấy rằng: ông T cung cấp tài liệu chứng cứ là 01 giấy viết tay ghi ngày 01/01/2020 bản gốc, thể hiện chị ĐTBT cùng mẹ là bà NTTH có vay của ông T số tiền là 47.320.000đồng. Cả chị T và bà H đều có ký nhận và có thỏa thuận về thời hạn trả nợ là ngày 25/7/2021. Như vậy xác định đây là hợp đồng vay có kỳ hạn không có thỏa thuận về lãi suất.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào lời khai của các đương sự Hội đồng xét xử thấy rằng: Nguyên đơn ông T, bị đơn bà H và chị T đều thống nhất xác nhận ngày 01/01/2020 chị T và bà H có vay của ông T số tiền 47.320.000đồng, giấy vay tiền do chính tay chị T ký, bà H cũng xác nhận có ký nhận. Hai bên không có tranh chấp gì về nội dung của hợp đồng vay tiền, số tiền vay, thời hạn trả nợ.

Về trách nhiệm trả nợ: Quan điểm của ông T đề nghị Toà án buộc bà H và chị T cùng có trách nhiệm trả số nợ trên cho ông T. Quan điểm của bà H và chị T đều cho rằng số tiền này là vay để chị T sử dụng, bà H không được sử dụng, bà H chỉ ký để đảm bảo cho chị T vay được tiền của ông T. Nay ông T khởi kiện chị T sẽ là người đứng ra chịu trách nhiệm về toàn bộ khoản vay này. chị T trình bày thêm là giữa bà H, chị T và ông T đã đến UBND xã Cự Thắng để làm thủ tục bàn giao số nợ cho chị T, thể hiện ở lời chứng của UBND xã Cự Thắng ngày 28/7/2020.

Quá trình đánh giá chứng cứ, xác minh tại cơ sở, HĐXX thấy rằng: Trong “Giấy vay tiền” ngày 01/01/2020 thể hiện rõ: “Tôi là ĐTBT….. cùng mẹ là NTTH…” như vậy bên vay là bà NTTH và chị ĐTBT. Không có nội dung nào thể hiện bà H là người đứng ra bảo lãnh hay làm chứng cho khoản vay. Còn việc ai là người trực tiếp sử dụng số tiền, sử dụng như thế nào thì bên cho vay không có trách nhiệm và không thể biết được việc này.

Đối với lời chứng của UBND xã Cự Thắng: Quá trình xác minh đã thể hiện, UBND xã Cự Thắng không chứng kiến việc vay tiền hay giao tiền giữa các bên, UBND xã Cự Thắng chỉ chứng thực chữ ký của chị T là đúng và chị T có thông tin về dân sự là đúng theo yêu cầu đơn phương của chị T. Không có việc các bên bàn giao công nợ cho nhau tại UBND xã Cự Thắng.

Từ những phân tích trên thấy rằng yêu cầu khởi kiện của ông T là có căn cứ cần được chấp nhận, từ đó cần buộc bà NTTH và chị ĐTBT phải cùng có trách nhiệm trả cho ông T toàn bộ số tiền nợ gốc đã vay là 47.320.000đồng là có căn cứ theo quy định tại điều 466 - Bộ luật dân sự năm 2015. Cụ thể: bà H và Chị T mỗi người phải trả cho ông T 23.660.000đồng (Hai mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng) tiền nợ gốc.

[3]. Về yêu cầu tính lãi: Trong quá trình giải quyết vụ án ông T yêu cầu tính lãi theo quy định của pháp luật nhưng tại phiên tòa ông T xin rút, không yêu cầu bà H, Chị T phải trả lãi đối với số nợ trên. Do vậy, HĐXX không xem xét.

[4]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của ông T được chấp nhận nên bà H và chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 357, Điều 463, Điều 466, Khoản 1 Điều 470 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 - Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông ĐVT đối với bà NTTH và chị ĐTBT.

Buộc bà NTTH và chị ĐTBT phải trả cho ông ĐVT số tiền nợ gốc là 47.320.000đ (Bốn mươi bảy triệu ba trăm hai mươi nghìn đồng).

Trong đó:

Buộc bà NTTH phải trả cho ông ĐVT số tiền nợ gốc là: 23.660.000đồng (Hai mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng).

Buộc chị ĐTBT phải trả cho ông ĐVT số tiền nợ gốc là:

23.660.000đồng (Hai mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, ông T có đơn yêu cầu thi hành án mà bà H, Chị T không thực hiện nghĩa vụ thanh toán số tiền trên cho ông T, thì ngoài số tiền phải trả, bà H, Chị T còn phải trả lãi cho đến khi thi hành án xong đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 3 Điều 357 - Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc bà NTTH phải nộp số tiền 1.183.000đ (Một triệu một trăm tám mươi ba nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Buộc chị NTBT phải nộp số tiền 1.183.000đ (Một triệu một trăm tám mươi ba nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. "Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự."

5. Về quyền kháng cáo: ông T, Chị T có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bà H vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 03/2022/DS-ST

Số hiệu:03/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về