Bản án về tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa số 27/2019/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍMINH

BẢN ÁN 27/2019/KDTM-ST NGÀY 20/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA

Ngày 20 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 17/2019/TLST-KDTM ngày 06 tháng 6 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng vận chuển hàng hóa”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 464/QĐXXST-KDTM ngày 11 tháng 10 năm 2019 vàQuyết định hoãn phiên tòa số 163/2019/QĐST-KDTM ngày 30 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên V Địa chỉ: Đường T, phường L, thành phố Q, tỉnh Bình Định.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đăng V, sinh năm: 1960, văn bản ủy quyền ngày 29/5/2019; địa chỉ: Đường số h, Phường K, quận G, TP. Hồ ChíMinh. (có đơn xin vắng mặt) 2/ Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn sắt thép M Địa chỉ: Đường số W, Phường K, Quận F, Thành phố Hồ ChíMinh Đại diện theo pháp luật: BàNguyễn Thị P, chức vụ: Giám đốc Địa chỉ: Đường Â, phường P, quận T, Thành phố Hồ ChíMinh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 29/5/2019, bản tự khai, nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên V do ông Nguyễn Đăng V đại diện theo ủy quyền trình bày:

Vào ngày 21/9/2018, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên V (sau đây viết tắt làCông ty V) vàCông ty trách nhiệm hữu hạn sắt thép M (sau đây viết tắt làCông ty M) cókýhợp đồng số 2109/2018/HĐVC về việc vận chuyển cát. Địa điểm lấy cát làkhu vực Công ty sắt Hòa Phát tại Quảng Ngãi, địa điểm đổ cát làVịnh An Hòa, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Giátiền vận chuyển là 2.600đồng/m3/km và phương thức thanh toán tiền vận chuyển được nêu rõtrong hợp đồng số 2109/2018/HĐVC.

Thực hiện hợp đồng hai bên đã ký, Công ty V đã vận chuyển cát cho Công ty M đúng như thỏa thuận. Chi phívận chuyển từ ngày 29/9/2018 cho đến ngày 29/11/2018 là 1.322.569.670đ (một tỷ, ba trăm hai mươi hai triệu, năm trăm sáu mươi chín nghìn, sáu trăm bảy mươi đồng). Hai bên đã lập biên bản đối chiếu thanh toán, cósự xác nhận của Công ty M. Cụ thể Công ty M còn thiếu nợ Công ty V tiền vận chuyển cát là 1.322.569.670đồng. Đã nhiều lần Công ty V yêu cầu Công ty M trả số nợ nêu trên nhưng Công ty M không thực hiện. Do đó, Công ty V khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên buộc Công ty M thanh toán cho Công ty V số nợ là 1.322.569.670đồng (một tỷ, ba trăm hai mươi hai triệu, năm trăm sáu mươi chín nghìn, sáu trăm bảy mươi đồng).

Ngày 01/10/2019, nguyên đơn có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể rút lại số tiền 29.300.000đ (hai mươi chín triệu, ba trăm nghìn đồng) tại mục III các khoản chi hộ tại bản đối chiếu thanh toán từ ngày 29/9/2018 đến 29/11/2018. Do đó, Công ty V yêu cầu Công ty M trả số tiền còn lại là 1.293.269.670đ (một tỷ, hai trăm chín mươi ba triệu, hai trăm sáu mươi chín nghìn, sáu trăm bảy mươi đồng) trả một lần ngay sau khi bản án cóhiệu lực pháp luật.

Bị đơn: Quátrình giải quyết vụ án Công ty Trách nhiệm hữu hạn sắt thép M do bà Nguyễn Thị P đại diện theo pháp luật vắng mặt nên không ghi nhận được ýkiến.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn Đăng V đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vắng mặt vàcó đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn sắt thép M do bàNguyễn Thị P đại diện theo pháp luật vắng mặt tại phiên tòa vàkhông có văn bản nêu ýkiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 tham dự phiên tòa phát biểu ýkiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quátrình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lývụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Qua xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét thấy: Giữa nguyên đơn là Công ty V và bị đơn là Công ty M có ký kết hợp đồng số 2109/2018/HĐVC ngày 21/9/2018 về việc vận chuyển cát. Quátrình thực hiện hợp đồng Công ty V đã vận chuyển cát cho công ty M nhưng Công ty M chưa thanh toán tiền chi phívận chuyển. Tại biên bản đối chiếu thanh toán thìsố tiền Công ty M còn nợ lại là 1.322.569.670đồng (một tỷ, ba trăm hai mươi hai triệu, năm trăm sáu mươi chín nghìn, sáu trăm bảy mươi đồng).

Ngày 01/10/2019, nguyên đơn có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể rút lại số tiền 29.300.000đ (hai mươi chín triệu, ba trăm nghìn đồng) tại mục III các khoản chi hộ tại bản đối chiếu thanh toán từ ngày 29/9/2018 đến 29/11/2018. Do đó, Công ty V yêu cầu Công ty M trả số tiền còn lại là 1.293.269.670đ (một tỷ, hai trăm chín mươi ba triệu, hai trăm sáu mươi chín nghìn, sáu trăm bảy mươi đồng). Việc Công ty M không thanh toán số tiền nêu trên làvi phạm nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu cótrong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, các lời khai, ýkiến của đại diện Viện kiểm sát Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng, quan hệ tranh chấp vàthẩm quyền giải quyết vụ án:

[1.1]. Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn sắt thép M do bàNguyễn Thị P đại diện theo pháp luật theo đúng qui định của pháp luật Tố tụng dân sự.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Đăng V có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải căn cứ vào khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án không tiến hành hòa giải vàtiến hành xét xử vụ án.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Đăng V vắng mặt tại phiên tòa vàcóđơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn sắt thép M do bàNguyễn Thị P đại diện theo pháp luật đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai màvẫn vắng mặt không đến dự phiên tòa, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 vàkhoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án giải quyết vắng mặt theo thủ tục chung.

[1.2]. Về quan hệ tranh chấp: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên V khởi kiện Công ty trách nhiệm hữu hạn sắt thép M tranh chấp về hợp đồng vận chuyển hàng hóa đây là tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[1.3]. Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn làCông ty trách nhiệm hữu hạn sắt thép M cóđịa chỉ tại đường số W, Phường K, Quận F, Thành phố Hồ ChíMinh theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ ChíMinh.

[2]. Về yêu cầu của đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1] Ngày 21/9/2018, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên V (sau đây viết tắt làCông ty V) vàCông ty trách nhiệm hữu hạn sắt thép M (sau đây viết tắt làCông ty M) có ký hợp đồng số 2109/2018/HĐVC về việc vận chuyển cát. Thực hiện hợp đồng, Công ty V đã vận chuyển cát cho Công ty M đúng như thỏa thuận. Hai bên đã lập biên bản đối chiếu thanh toán từ ngày 29/9/2018 cho đến ngày 29/11/2018 cósự xác nhận của Công ty M còn thiếu nợ Công ty V tiền vận chuyển cát là1.322.569.670đồng (một tỷ, ba trăm hai mươi hai triệu, năm trăm sáu mươi chín nghìn, sáu trăm bảy mươi đồng).

[2.2] Căn cứ hợp đồng vận chuyển cát số 2109/2018/HĐVC ngày 21/9/2018 giữa Công ty V vàCông ty M vàbiên bản đối chiếu thanh toán từ ngày 29/9/2018 cho đến ngày 29/11/2018 có sự xác nhận của Công ty M thìCông ty V đã vận chuyển cát cho Công ty M đúng như thỏa thuận mà hai bên đã ký.

[2.3] Tại biên bản đối chiếu thanh toán từ ngày 29/9/2018 đến 29/11/2018 cóxác nhận giữa bên thuêlàCông ty M vàbên vận chuyển làCông ty V thìsố nợ còn lại mà Công ty M chưa thanh toán cho Công ty V là1.322.569.670đồng (một tỷ, ba trăm hai mươi hai triệu, năm trăm sáu mươi chín nghìn, sáu trăm bảy mươi đồng). Theo Điều 3 của hợp đồng vận chuyển cát số 2109/2018/HĐVC ngày 21/9/2018 thì Công ty M phải có trách nhiệm thanh toán số tiền nêu trên cho Công ty V nhưng đến nay vẫn chưa thanh toán làkhông phùhợp, vi phạm hợp đồng mà hai bên đã ký, ảnh hưởng đến quyền vàlợi ích hợp pháp của nguyên đơn.

[2.4] Ngày 01/10/2019, nguyên đơn có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể rút lại số tiền 29.300.000đ (hai mươi chín triệu, ba trăm nghìn đồng) tại mục III các khoản chi hộ tại bản đối chiếu thanh toán từ ngày 29/9/2018 đến 29/11/2018. Do đó, Công ty V yêu cầu Công ty M trả số tiền còn lại là1.293.269.670đ (một tỷ, hai trăm chín mươi ba triệu, hai trăm sáu mươi chín nghìn, sáu trăm bảy mươi đồng). Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu làsự tự nguyện của nguyên đơn, không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện đã rút của nguyên đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự

[2.5] Trong quátrình giải quyết vụ án, bị đơn đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án. Tuy nhiên, bị đơn không nộp văn bản trình bày ýkiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không nộp tài liệu, chứng cứ để chứng minh đã thanh toán số tiền còn nợ là1.293.269.670đ (một tỷ, hai trăm chín mươi ba triệu, hai trăm sáu mươi chín nghìn, sáu trăm bảy mươi đồng) cho nguyên đơn. Do đó, căn cứ vào các điều 24, 50 và 55 Luật Thương mại năm 2005, Điều 3 của hợp đồng vận chuyển cát số 2109/2018/HĐVC ngày 21/9/2018 giữa Công ty V vàCông ty M. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền còn nợ 1.293.269.670đ (một tỷ, hai trăm chín mươi ba triệu, hai trăm sáu mươi chín nghìn, sáu trăm bảy mươi đồng) là có cơ sở chấp nhận.

[3] Về tiền lãi chậm thanh toán, nguyên đơn không yêu cầu bị đơn trả tiền lãi trên số tiền còn nợ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về án phí: Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 50.798.090 (năm mươi triệu, bảy trăm chín mươi tám nghìn, không trăm chín mươi đồng) do Công ty trách nhiệm hữu hạn sắt thép M phải chịu.

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên V không phải nộp án phí. Hoàn trả lại cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên V số tiền 25.838.545đ (hai mươi lăm triệu, tám trăm ba mươi tám nghìn, năm trăm bốn mươi lăm đồng)

Vìcác lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; khoản 4 Điều 207, Điều 218; khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều 244 vàkhoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Căn cứ Điều 24, 50, 55 Luật Thương mại năm 2005.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lývàsử dụng án phívàlệ phíTòa án.

Tuyên xử:

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đã rút tại mục III các khoản chi hộ tại bản đối chiếu thanh toán từ ngày 29/9/2018 đến 29/11/2018, với số tiền là 29.300.000đ (hai mươi chín triệu, ba trăm nghìn đồng).

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên V Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn sắt thép M phải thanh toán cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên V số tiền là1.293.269.670đ (một tỷ, hai trăm chín mươi ba triệu, hai trăm sáu mươi chín nghìn, sáu trăm bảy mươi đồng). Thanh toán một lần ngay sau khi bản án cóhiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên V có đơn yêu cầu thi hành án nếu Công ty trách nhiệm hữu hạn sắt thép M không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ khoản tiền như đã nêu trên thì hàng tháng Công ty trách nhiệm hữu hạn sắt thép M còn phải trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên V tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền vàthời thời gian chậm thi hành.

3. Về án phíkinh doanh thương mại sơ thẩm là50.798.090 (năm mươi triệu, bảy trăm chín mươi tám nghìn, không trăm chín mươi đồng) do Công ty trách nhiệm hữu hạn sắt thép M phải chịu.

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên V không phải chịu án phí. Hoàn trả lại cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên V số tiền 25.838.545đ (hai mươi lăm triệu, tám trăm ba mươi tám nghìn, năm trăm bốn mươi lăm đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0011237 ngày 06/6/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 6, Thành phố Hồ ChíMinh.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự cóquyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án Dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

350
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa số 27/2019/KDTM-ST

Số hiệu:27/2019/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 20/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về