Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 559/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 559/2023/DS-ST NGÀY 10/04/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 10 tháng 4 năm 2023, tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1611/2020/TLST-DS ngày 20 tháng 10 năm 2020, về tranh chấp hợp đồng tín dụng, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2023/QĐXXST-DS ngày 13 tháng 03 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn là Ngân hàng A; địa chỉ: đường X, Phường Y, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện hợp pháp là ông C, đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 05/12/2022) (Có đơn đề nghị vắng mặt);

Bị đơn là bà B; địa chỉ: đường M, Phường N, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12/6/2020 và trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, người đại diện của nguyên đơn là ông C trình bày:

Ngày 17 tháng 7 năm 2015, nguyên đơn và bị đơn ký hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ( Bao gồm giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).

Bị đơn đã được cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 10.000.000 (Mười triệu) đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bị đơn đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 46.584.434 đồng.

Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay bị đơn đã không thanh toán nợ cho ngân hàng. Tính đến ngày 27 tháng 04 năm 2020, bị đơn còn nợ 12.304.993 đồng, bao gồm: nợ gốc: 8.281.289 đồng, lãi quá hạn: 4.023.704 đồng. Nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán cho nguyên đơn số tiền nêu trên làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật và thanh toán tiền lãi phát sinh từ ngày 28 tháng 04 năm 2020 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng. Trường hợp bị đơn không thanh toán nợ vay đúng hạn, Ngân hàng được toàn quyền chỉ định phát mãi bất kỳ tài sản nào thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị đơn để đảm bảo toàn bộ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Buộc bị đơn thanh toán toàn bộ án phí, chi phí phát sinh trong quá trình tố tụng (nếu có).

Bị đơn là bà B đã được Tòa án thực hiện thủ tục tống đạt thông báo thụ lý vụ án, nhưng cho đến nay vẫn không nộp (gửi) cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo. Tòa án cũng đã thực hiện thủ tục tống đạt thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hai lần, nhưng bị đơn cũng không đến Tòa án để tham gia vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp về hợp đồng tín dụng, nên Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh thụ lý, giải quyết là đúng quan hệ tranh chấp và thẩm quyền.

Về tố tụng: Tòa án đã xác định đúng người tham gia tố tụng. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định tại các điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự; Phía bị đơn chưa thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định tại các điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự;

Về nội dung vụ án: Căn cứ các điều 385, 401, 402 Bộ luật dân sự năm 2015 và các điều 91, 98 Luật các tổ chức tín dụng, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về án phí sơ thẩm: Bị đơn phải đóng án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Quan hệ tranh chấp trong vụ án là tranh chấp về hợp đồng dân sự. Căn cứ khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[3] Về yêu cầu của đương sự:

[3.1] Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 17 tháng 7 năm 2015 và bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng A được ký kết giữa nguyên đơn và bị đơn thể hiện bị đơn được cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 10.000.000 (Mười triệu) đồng.

[3.2] Qúa trình sử dụng thẻ, từ ngày 03 tháng 01 năm 2019 đến ngày 27 tháng 4 năm 2020, bị đơn liên tục không thanh toán dư nợ thẻ tín dụng (thể hiện tại Tóm tắt sao kê ngày 27 tháng 4 năm 2020). Đồng thời, nguyên đơn đã ban hành Thông báo khởi kiện đối với bị đơn vào các ngày: 19 tháng 10 năm 2019, 16 tháng 12 năm 2019 và 03 tháng 03 năm 2020, nhưng cho đến nay bị đơn vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán số tiền còn thiếu, nên nguyên đơn có đơn khởi kiện và yêu cầu bị đơn phải thanh toán toàn bộ số nợ là có cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015, nên được chấp nhận.

[3.3] Nguyên đơn cho rằng bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nên yêu cầu bị đơn phải trả toàn bộ số tiền còn thiếu tính đến ngày 10 tháng 4 năm 2023 là 21.901.349 đồng, bao gồm: nợ gốc, lãi quá hạn. Ngoài ra, bị đơn còn phải tiếp tục trả lãi phát sinh từ ngày 11 tháng 4 năm 2023 cho đến khi trả nợ xong. Qua đó, Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ tóm tắt sao kê thẻ tín dụng (tính đến ngày 10 tháng 4 năm 2023) do nguyên đơn cung cấp, thể hiện bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền là 21.901.349 đồng, gồm: nợ gốc là 8.281.289 đồng, lãi quá hạn là 13.620.060 đồng. Đối chiếu với với thỏa thuận của hai bên tại Điều 23 của bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng A thì bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, về phía bị đơn trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án đã không có mặt để trình bày ý kiến của mình đối với nguyên đơn cũng như không có bất kỳ chứng cứ nào nộp cho Tòa án. Vì vậy, cần buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền còn thiếu là 21.901.349 đồng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

Kể từ ngày 11 tháng 4 năm 2023, bà B còn phải tiếp tục trả lãi phát sinh theo mức lãi suất thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 17 tháng 7 năm 2015 và bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng A, tương ứng với số tiền nợ gốc cho đến khi trả hết số nợ nêu trên.

Về thời gian trả: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả số tiền vốn, tiền lãi một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Xét thấy, do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật là có căn cứ, nghĩ nên chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 21.901.349 đồng x 5% = 1.095.067 đồng;

Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 307.625 đồng, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0026578 ngày 14 tháng 7 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự, Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng A, buộc bà B phải trả cho Ngân hàng A số tiền tính đến ngày 10 tháng 4 năm 2023 là: 21.901.349 (Hai mươi mốt triệu, chín trăm lẻ một ngàn, ba trăm bốn mươi chín) đồng, bao gồm: nợ gốc là 8.281.289 đồng, lãi quá hạn là 13.620.060 đồng, theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 17 tháng 7 năm 2015 và bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng A.

Kể từ ngày 11 tháng 4 năm 2023, bà B còn phải tiếp tục trả lãi phát sinh theo mức lãi suất thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 17 tháng 7 năm 2015 và bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng A, tương ứng với số tiền nợ gốc cho đến khi trả hết số nợ nêu trên.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà B phải chịu án phí là 1.095.067 (Một triệu, không trăm chín mươi lăm ngàn, không trăm sáu mươi bảy) đồng;

Ngân hàng A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 307.625 ( Ba trăm lẻ bảy ngàn, sáu trăm hai mươi lăm) đồng, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0026578 ngày 14 tháng 7 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Thi hành tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp Bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

3. Quyền kháng cáo: Ngân hàng A và bà B vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 559/2023/DS-ST

Số hiệu:559/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về