TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH SƠN, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 50/2023/DS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 27 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 94/2023/TLST-DS ngày 19 tháng 6 năm 2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2023/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 8 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2023/QĐST-DS ngày 06 tháng 9 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng C.
Địa chỉ trụ sở: Tòa nhà CC5, khu B L, phường H, quận H, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Quyết T - Chức vụ: Tổng Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn T1 - Giám đốc phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện N, tỉnh Ninh Thuận.
Theo Quyết định ủy quyền số: 7300/QĐ-NHCS ngày 19 tháng 9 năm 2019 của Tổng Giám đốc Ngân hàng C.
Người được ủy quyền lại: Ông Lê Minh V, Phó Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện N, tỉnh Ninh Thuận – Có đơn xin xét xử vắng mặt.
Theo Giấy ủy quyền ngày 27/4/2023 của Giám đốc phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện N, tỉnh Ninh Thuận.
Địa chỉ phòng giao dịch: Khu phố C, thị trấn T, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.
- Bị đơn: Bà Bùi Thị T2, sinh năm 1986 – Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn T, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.
- Ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Bá K, sinh năm 1975 – Vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn T, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Lê Minh V là Người được ủy quyền lại của Nguyên đơn - Ngân hàng C (Sau đây viết tắt là NHCSXHVN và gọi tắt là Ngân hàng) có đơn xin xét xử vắng mặt. Tại đơn khởi kiện đề ngày 27-4-2023 và quá trình tham gia tố tụng, ông V trình bày:
Bà Bùi Thị T2 có đứng tên vay vốn tại NHCSXHVN - phòng giao dịch huyện N - chi nhánh tỉnh N theo chương trình cho H mới thoát nghèo theo Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay do Ngân hàng phê duyệt ngày 13/3/2017; số tiền vay: 35.000.000 đồng; lãi suất: 0.6875%/ tháng lãi suất nợ quá hạn: 130% lãi suất khi cho vay; mục đích sử dụng vốn vay: Nuôi bò sinh sản; thời hạn cho vay: 60 tháng; kỳ hạn trả nợ: 12 tháng/ lần; số tiền trả nợ: 7.000.000 đồng/ lần; hạn trả nợ cuối cùng: 16/3/2022.
Ngày 16/3/2017, Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền của khoản vay trên. Tuy nhiên, sau khi vay, bà Bùi Thị T2 và chồng là ông Phạm Bá K không thanh toán đủ tiền gốc và lãi theo thỏa thuận. Vì vậy, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà T2 và ông K có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ cho Ngân hàng, cụ thể:
- Nợ gốc là: 35.000.000 đồng.
- Nợ lãi tính đến ngày 27/9/2023 là: 3.956.849 đồng. Tổng cộng: 38.956.849 đồng.
Từ ngày 28/9/2023, buộc bà T2 và ông K phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.
Tại phiên tòa, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt:
Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà T2 và ông K nhưng các đương sự vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm:
1. Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
2. Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của đương sự:
Đại diện cho Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dù được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến phiên tòa sơ thẩm nhưng vắng mặt không lý do. Do đó, căn cứ Điều 227, 228, đề nghị Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
3. Về việc giải quyết vụ án:
Xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ninh Sơn theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Căn cứ vào quy định tại Điều 280, 357, 463, 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 147, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của NHCSXHVN, cụ thể như sau:
- Buộc bà T2 và ông K phải có trách nhiệm thanh toán cho NHCSXHVN số nợ là: Nợ gốc là: 35.000.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày 27/9/2023 là: 3.956.849 đồng. Tổng cộng: 38.956.849 đồng. Đồng thời còn phải tiếp tục trả lãi phát sinh kể từ ngày 28/9/2023 cho đến khi trả xong khoản nợ gốc.
- NHCSXHVN không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Buộc bà T2 và ông K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp:
Ngân hàng C khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết về Tranh chấp hợp đồng tín dụng với bà Bùi Thị T2 và ông Phạm Bá K. Hội đồng xét xử sơ thẩm xét thấy: Theo thỏa thuận giữa các bên đây là khoản vay cho vay hộ mới thoát nghèo với mục đích chăn nuôi bò. Bên vay không đăng ký kinh doanh, thương mại, thỏa thuận không phát sinh vì mục đích kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và cũng không có mục đích lợi nhuận theo như quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
[1.2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án:
Bị đơn có địa chỉ cư trú tại thôn T, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự:
Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận.
[1.3] Xử lý về sự vắng mặt của đương sự:
Đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến phiên tòa sơ thẩm nhưng vắng mặt không lý do và không có ý kiến trình bày, không có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử sơ thẩm tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về nội dung tranh chấp: Xét yêu cầu khởi kiện của NHCSXHVN, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận thấy:
[2.1] Về việc NHCSXHVN yêu cầu bà T2 và ông K1 phải thanh toán tổng số tiền nợ gốc của khoản vay:
Qua các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ thể hiện: Ngân hàng đã phê duyệt cho bà T2 và ông K khoản vay với tổng số tiền là: 35.000.000 đồng, thỏa thuận rõ thời hạn cho vay, hạn trả nợ cuối cùng,... Xét thấy: Giao dịch xác lập giữa các bên dựa trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc, không trái đạo đức xã hội, có hình thức, nội dung phù hợp với quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng nên được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Tuy nhiên, sau khi vay, bà T2 và ông K không thanh toán cho Ngân hàng tiền gốc và lãi theo đúng thỏa thuận. Hiện khoản vay đã quá kỳ hạn trả nợ và chuyển sang nợ quá hạn. Việc vi phạm nghĩa vụ của bên vay trong một thời gian dài đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Ngân hàng được pháp luật bảo vệ, vi phạm các thỏa thuận đã ký kết. Ông K không trực tiếp ký kết giao dịch nhưng ký thừa kế khoản vay và Giấy ủy quyền, đồng ý cho vợ là bà T2 đại diện đứng tên người vay để thực hiện các giao dịch với Ngân hàng. Hơn nữa, đây là khoản vay chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình nên bà T2 và ông K phải chịu trách nhiệm liên đới về nghĩa vụ thanh toán khoản nợ cho Ngân hàng. Do đó, việc NHCSXHVN yêu cầu bà T2 và ông K phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ gốc là có căn cứ, phù hợp với quy định tại các Điều 463, 466 Bộ luật Dân sự, Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận.
[2.2] Về việc NHCSXHVN yêu cầu bà T2 và ông K phải thanh toán số tiền nợ lãi phát sinh:
Xét thấy: NHCSXHVN cho bà T2 và ông K vay tổng số tiền 35.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận của khoản vay là: 0.6875%/ tháng, lãi suất nợ quá hạn:
130% lãi suất khi cho vay. Các bên đã thỏa thuận với nhau về thời hạn thanh toán, mức lãi suất cho vay nên việc bà T2 và ông K không thanh toán tiền nợ gốc, nợ lãi đúng thời hạn đã thỏa thuận là vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Về thời gian, mức tính lãi suất mà Ngân hàng đã áp dụng là hoàn toàn phù hợp với thỏa thuận tại tại Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay đã được phê duyệt, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng, Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng N quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng, khoản 2 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm quy định. Về khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Do đó, yêu cầu của Ngân hàng về việc buộc bên vay phải thanh toán tiền lãi là có cơ sở nên được chấp nhận.
[2.3] Từ những phân tích trên và xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của NHCSXHVN: Buộc bà T2 và ông K phải có nghĩa vụ thanh toán cho NHCSXHVN số tiền nợ gốc và lãi, cụ thể:
- Nợ gốc là: 35.000.000 đồng.
- Nợ lãi tính đến ngày 27/9/2023 là: 3.956.849 đồng. Tổng cộng: 38.956.849 đồng.
Kể từ ngày 28/9/2023, buộc bà T2 và ông K còn phải tiếp tục chịu lãi phát sinh của khoản nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay do Ngân hàng phê duyệt ngày 13/3/2017 đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm c khoản 1 Điều 11, khoản 1, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
- Ngân hàng C không phải nộp tiền tạm ứng án phí, không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
- Buộc bà T2 và ông K phải chịu số tiền 1.947.842 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
[4] Về quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo:
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Căn cứ vào Điều 280, 357, 463, 466 Bộ luật Dân sự năm 2015; Căn cứ vào Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ vào khoản 16 Điều 4, khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng;
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 11, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng C về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” với bà Bùi Thị T2 và ông Phạm Bá K.
2/ Buộc bà Bùi Thị T2 và ông Phạm Bá K phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng C số tiền nợ gốc và lãi, cụ thể:
- Nợ gốc là: 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng).
- Nợ lãi tính đến ngày 27/9/2023 là: 3.956.849 đồng (Ba triệu chín trăm năm mươi sáu nghìn tám trăm bốn mươi chín đồng).
Tổng cộng: 38.956.849 đồng (Ba mươi tám triệu chín trăm năm mươi sáu nghìn tám trăm bốn mươi chín đồng).
3/ Kể từ ngày 28/9/2023 cho đến khi thi hành án xong, bà Bùi Thị T2 và ông Phạm Bá K còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất các bên thỏa thuận tại Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay do Ngân hàng C phê duyệt ngày 13/3/2017, cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà bà Bùi Thị T2 và ông Phạm Bá K phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng C theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng C.
4/ Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ngân hàng C không phải nộp tiền tạm ứng án phí, không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
- Buộc bà Bùi Thị T2 và ông Phạm Bá K phải chịu số tiền 1.947.842 đồng (Một triệu chín trăm bốn mươi bảy nghìn tám trăm bốn mươi hai đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
5/ Về quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo:
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 50/2023/DS-ST
Số hiệu: | 50/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ninh Sơn - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về