Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 46/2021/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KONTUM,TỈNH KONTUM

BẢN ÁN 46/2021/DS-ST NGÀY 10/8/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 

Ngày 10/8/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố K T, tỉnh K T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 51/2021/TLST- DS ngày 10 tháng 03 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2021/QĐST- DS ngày 28/6/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 351/2021/QĐST- DS ngày 19/7/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: NHCSXH;

Địa chỉ: PLĐ, phường HL, quận HM, thành phố Hà Nội người đại diện theo pháp luật: ông dương quyết thắng – tổng giám đốc nhcsxh; người đại diện theo ủy quyền: ông nguyễn văn chung - phó giám đốc ngân hàng chính sách xã hội tỉnh kontum. "có mặt".

Địa chỉ: DT , thành phố K T, tỉnh K T.

- Bị đơn: Bà Trần Thị Lan H. Sinh năm 1975; “Vắng mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Trần Thị Hương T, sinh năm 1999; Vắng mặt” Cùng địa chỉ: Thôn 09, xã Đăk Cấm, thành phố K T, tỉnh K T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/02/2021 và các tài liệu, chứng có trong hồ sơ vụ án và lời khai tại phiên tòa thì đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ngân hàng Chính sách xã hội trình bày:

Căn cứ vào giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sản xuất và khế ước nhận nợ ngày 08/5/2015 giữa chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh K T với hộ bà Trần Thị Lan H về việc vay vốn hộ cận nghèo. Ngày 21/5/2015, chi nhánh NHCSXH tỉnh K T đã giải ngân (bằng tiền mặt) cho hộ bà Trần Thị Lan H vay số tiền 50.000.000 đồng (Năm mưoi triệu đồng), lãi suất 0,72 %/tháng, lãi suất nợ quá hạn là 130% lãi suất khi cho vay, thời hạn 60 tháng, ngày trả cuối cùng 20/5/2020. Cho vay bằng tín chấp (không có bảo đảm bằng tài sản), mã món vay số 6600000704380935.

Căn cứ vào giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sản xuất và khế ước nhận nợ ngày 20/6/2015 giữa chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh K T với hộ bà Trần Thị Lan H thuộc chương trình giải quyết việc làm vay với số tiền 20.000.000 đồng do bà Trần Thị Lan H đứng tên vay vốn, lãi suất 0,55 %/tháng, lãi suất nợ quá hạn là 0,715%/ tháng, thời hạn 36 tháng, ngày trả cuối cùng 20/6/2018. Cho vay bằng tín chấp (không có bảo đảm bằng tài sản), mã món vay số 6600000704655514.

Đối với món vay 50.000.000 đồng, từ ngày 20/6/2015 đến ngày 05/7/2019 hộ bà Trần Thị Lan H đã trả được cho Ngân hàng số tiền lãi trong hạn là 17.487.982. Đối với món vay 20.000.000 đồng, từ ngày 04/7/2015 đến ngày 05/7/2019 hộ bà Trần Thị Lan H đã được 2.100.000 đồng tiền gốc, 5.261.483 tiền lãi trong hạn, 113.895 đồng tiền lãi quá hạn.

Đối với món vay 50.000.000 đồng , tính đến ngày 10/8/2021 hộ bà Trần Thị Lan H còn nợ Ngân hàng CSXH số tiền gốc là 50.000.000 đồng, lãi trong hạn 22.092.000 đồng, lãi quá hạn 6.723.600 đồng, tổng cộng là 78.815.600 đồng.

Đối với món vay 20.000.000 đồng, tính đến ngày 10/8/2021 hộ bà Trần Thị Lan H còn nợ Ngân hàng CSXH số tiền gốc là 17.900.000 đồng, lãi trong hạn 5.261.483 đồng, lãi quá hạn 113.895 đồng, tổng cộng là 23.275.378 đồng.

Mặc dù Tổ trưởng tổ vay vốn, cán bộ chi nhánh Ngân hàng CSXH tỉnh K T đã đôn đốc hộ bà Trần Thị Lan H trả nợ cho Ngân hàng nhiều lần nhưng hộ bà Hương vẫn không trả cho Ngân hàng. Để thu hồi tài sản cho Nhà nước, đề nghị Tòa án nhân dân thành phố K T buộc hộ bà Trần Thị Lan H, chị Trần Thị Hương T phải trả nợ cho Ngân hàng CSXH tổng số tiền của 02 món vay là 102.090.978 đồng và lãi phát sinh từ ngày 11/8/2021 đến khi trả hết nợ.

Đối với bị đơn bà Trần Thị Lan H và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị Hương T: Trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố K T đã triệu tập hợp lệ (niêm yết công khai) các văn bản tổ tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng bà Hương và chị Thảo đều vắng mặt không có lý do. Tòa án nhân dân thành phố K T đã xác minh được bà Hương và chị Thảo hiện nay có hộ khẩu tại thôn 09, xã Đăk Cấm, thành phố K T nhưng hiện nay sinh sống làm việc ở đâu không rõ, không có mặt tại nơi cư trú.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố K T phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của đương sự theo quy định của pháp luật; Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Hương và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Thảo đã được triệu tập hợp lệ (Niêm yết công khai) nhưng không tham gia tố tụng, đề nghị xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Về nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có cơ sở nên chấp nhận, buộc bị đơn bà Trần Thị Lan H và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị Hương T phải trả các khoản nợ trên cho Ngân hàng và phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tuc tố tụng: Đối với bị đơn bà Trần Thị Lan H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị Hương T Tòa án đã thực hiện việc tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định, nhưng bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đến Tòa án để trình bày ý kiến bảo vệ quyền lợi cho mình và không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại Tòa án và không có yêu cầu phản tố. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung vụ án: Xét về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn NHCSXH yêu cầu Tòa án buộc bà Trần Thị Lan H và chị Trần Thị Hương T phải trả số tiền gốc vay còn nợ của món vay 6600000704380935 là 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), lãi trong hạn 22.092.000 đồng, lãi quá hạn 6.723.600 đồng, và phải trả số tiền gốc của món vay 6600000704655514 là 17.900.000 đồng, lãi trong hạn 5.261.483 đồng, lãi quá hạn 113.895 đồng. Tổng cộng của hai món vay là 102.090.978 đồng và lãi phát sinh từ ngày 11/8/2021 đến khi trả hết nợ.

Hội đồng xét xử xét thấy, Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố K T đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng tống đạt và niêm yết công khai các văn bản tố tụng của Tòa án để bị đơn bà Hương và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Thảo đến Tòa án làm việc, nhưng bà Hương, chị Thảo không có ý kiến về việc khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa để giải quyết vụ án và bà Hương và chị Thảo phải chịu hậu quả của việc không chứng minh của mình.

Xét thấy, việc ký hợp đồng vào ngày vào ngày 08/5/2015 và ngày 20/6/2015 hộ gia đình bà Hương đã ký hợp đồng vay vốn với Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh K T, bà Hương là người đã đứng tên vay vốn và đồng thời điểm gia hạn trả nợ được sự ủy quyền của chị Thảo, số tiền vay 50.000.000 đồng; mã món vay số số 6600000704380935, lãi suất 0,72 %/tháng, lãi suất nợ quá hạn là 130% lãi suất khi cho vay, thời hạn 60 tháng, ngày trả cuối cùng 20/5/2020. Cho vay bằng tín chấp (không có bảo đảm bằng tài sản). Mục đích sử dụng vốn vay: HTN- Hộ cận nghèo và món vay số 6600000704655514, lãi suất 0,55 %/tháng, lãi suất nợ quá hạn là 0,715%/ tháng, thời hạn 36 tháng, ngày trả cuối cùng 20/6/2018. Cho vay bằng tín chấp (không có bảo đảm bằng tài sản), như vậy việc ký các hợp đồng của bà Hương với ngân hàng là hợp pháp. Việc ngân hàng khởi kiện bà Hương và chị Thảo là có căn cứ. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, hộ bà Hương đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng đã ký kết với ngân hàng. Căn cứ Điều 290, khoản 1 Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 2 Điều 91, khoản 1 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng,ổ cần chấp nhận toàn bộ yêu cầu nêu trên của ngân hàng là đúng quy định của pháp luật. Buộc bị đơn bà Trần Thị Lan H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị Hương T phải liên đới trả cho NHCSXH số tiền như sau:

- Món vay số 6600000704380935, số tiền gốc vay 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), tiền lãi trong hạn lãi trong hạn 22.092.000 đồng, lãi quá hạn 6.723.600 đồng;

- Món vay số 66600000704655514, số tiền gốc vay là 17.900.000 đồng, lãi trong hạn 5.261.483 đồng, lãi quá hạn 113.895 đồng, Tổng cổng: 102.090.978 đ (Một trăm linh hai triệu không trăm chín mươi nghìn chín trăm bảy mươi tám đồng), bà Hương và chị Thảo tiếp tục phải chịu lãi theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng đã ký kể từ ngày 11/8/2021 cho đến khi trả hết nợ.

Đối với chị Trần Thị Hương T, con gái của bà Hương, là thành viên của hộ gia đình chị Hương có giấy ủy quyền để ủy quyền cho bà Hương đứng ra gia hạn vay vốn của Ngân hàng, việc vay vốn của Ngân hàng chính sách mục đích phát triển kinh tế cho hộ gia đình, vì lợi ích chung của hộ. Căn cứ quy định tại Điều 107 Bộ luật dân sự năm 2005 “Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình”. Vì vậy, chị Trần Thị Hương T phải có nghĩa vụ liên đới cùng với bà Hương trả nợ cho Ngân hàng chính sách xã hội.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu đơn khởi kiện của Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh K T được chấp nhận nên bị đơn bà Trần Thị Lan H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị Hương T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, tính được là: 102.090.978 đồng x 5 % = 5.104.549 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 144, khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 106, 107, 280, 290, 471, 474 và Điều 478 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 280, 288, 463, 468, 470, 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 91, khoản 1 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 6, điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, phí, lệ phí Toà án.

Xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng chính sách xã hội đề ngày 26/02/2021.

Buộc bà Trần Thị Lan H và chị Trần Thị Hương T phải liên đới trả cho Ngân hàng chính sách xã hội số tiền, cụ thể như sau:

- Món vay số 6600000704380935, số tiền gốc vay 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), tiền lãi trong hạn 22.092.000 đồng, lãi quá hạn 6.723.600 đồng;

- Món vay số 66600000704655514, số tiền gốc vay là 17.900.000 đồng, lãi trong hạn 5.261.483 đồng, lãi quá hạn 113.895 đồng, Tổng cổng: 102.090.978 đ (Một trăm linh hai triệu không trăm chín mươi nghìn chín trăm bảy mươi tám đồng).

Áp dụng Án lệ số 08/2016/AL, đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao: Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay ”.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị Lan H và chị Trần Thị Hương T phải liên đới chịu 5.104.549đ (Năm triệu một trăm linh bốn nghìn năm trăm bốn mươi chín đồng).

- Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10/8/2021) lên Tòa án nhân dân tỉnh K T để xin xét xử phúc thẩm. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguỵên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 46/2021/DS-ST

Số hiệu:46/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về