TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 39/2022/DS-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Trong ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 332/2021/TLST-DS ngày 29 tháng 10 năm 2021, về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2022/QĐST-DS ngày 29 tháng 4 năm 2022, Thông báo về việc dời ngày xét xử vụ án số 332/TB-TA ngày 27/5/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2022/QĐST-DS ngày 21/6/2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần bưu điện L Trụ sở: Số 210 đường T, phường TT, Quận H, thành phố H.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Doãn S, chức vụ: Tổng giám đốc. Người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng: Ông Nguyễn Thanh P, giám đốc chi nhánh Trà Vinh, là người đại diện theo ủy quyền (Theo văn bản ủy quyền số 337/2020/QĐ-HĐQT, ngày 23/4/2020). Ủy quyền lại cho Phan Dương Minh T, là chuyên viên xử lý nợ, tham gia tố tụng (theo văn bản ủy quyền số 441 ngày 09/11/2021).
Địa chỉ: Số 272A đường N, khóm S, phường B, thành phố T, tỉnh TV.
- Bị đơn: Bà Thiều Huỳnh C, sinh năm 1985.
Địa chỉ: Khóm M, phường N, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, ông Phan Dương Minh T là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày như sau:
Vào ngày 13/10/2016 Ngân hàng thương mại cổ phần bưu điện L – Chi nhánh T (gọi tắt là Ngân hàng) với bà Thiều Huỳnh C có ký hợp đồng tín dụng số 1341-16/HĐTD-LPB.TV với nội dung Ngân hàng đồng ý cho bà Thiều Huỳnh C vay số tiền vay gốc hạn mức là 90.000.000 đồng (chín mươi triệu đồng), mục đích vay để tiêu dùng (mua sắm thiết bị, nội thất gia đình,...), thời hạn vay là 60 tháng kể từ ngày nhận tiền vay. Thỏa thuận nợ gốc trả hàng tháng trong 60 tháng, tương ứng với 60 kỳ, số tiền trả từ kỳ thứ 01 đến thứ 59 vào ngày 15 hàng tháng, nợ lãi được trả hàng tháng theo kỳ nợ gốc. Lãi suất vay do hai bên thỏa thuận là 12%/năm, được đảm bảo tuân thủ theo quy định của pháp luật và được điều chỉnh định kỳ theo quy định của Ngân hàng. Lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Sau khi ký hợp đồng tín dụng nêu trên thì Ngân hàng đã giải ngân cho bà Thiều Huỳnh C với dư nợ cao nhất là 90.000.000 đồng (chín mươi triệu đồng). Bà C đã nhận đủ số tiền vay nêu trên theo giấy đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ có bà Thiều Huỳnh C ký tên.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, từ ngày 02/12/2019 đến nay thì bà C đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ cho Ngân hàng, không trả nợ đúng thỏa thuận đã giao kết. Tính đến ngày 19/7/2022 thì bà Thiều Huỳnh C còn nợ lại Ngân hàng tổng cộng lãi và gốc với số tiền là 77.619.611 đồng (trong đó: nợ gốc là 47.999.940 đồng, nợ lãi trong hạn là 8.192.948 đồng, nợ lãi quá hạn là 21.426.723 đồng). Mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần thông báo, nhắc nhở cũng như đã làm việc với bà Thiều Huỳnh C về việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng nhưng đến nay nghĩa vụ vẫn chưa được thực hiện.
Nay nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Thiều Huỳnh C có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng tổng số tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày 19/7/2022 là:
77.619.611 đồng. Đồng thời yêu cầu tiếp tục trả lãi phát sinh đến khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.
Quá trình giải quyết vụ án phía bị đơn bà Thiều Huỳnh C đều vắng mặt các lần triệu tập của Tòa án nên không có lời khai.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán từ khi thụ lý vụ án đã thực hiện đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và buộc bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tại phiên tòa hôm nay: Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có mặt.
Bị đơn bà Thiều Huỳnh C có ký kết hợp đồng tín dụng số 1341-16/HĐTD-LPB.TV ngày 13/10/2016 với nguyên đơn, hợp đồng được lập thành văn bản và bà Thiều Huỳnh C đã cung cấp địa chỉ cụ thể ghi trong hợp đồng là khóm M, phường N, thành phố T, tỉnh TV. Tại thời điểm giao kết hợp đồng, bà C đang là cán bộ công tác tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố T. Mặc dù hiện nay, bà C không có mặt tại địa chỉ ghi trong hợp đồng, đồng thời đã thôi việc, nhưng bà C không thông báo với nguyên đơn về việc thay đổi địa chỉ nơi cư trú, nơi làm việc mới nên xem như bà C cố tình giấu địa chỉ. Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng tại nơi cư trú, làm việc của các đương sự ghi trong hợp đồng là đúng quy định tại khoản 5 Điều 177 Bộ luật tố tụng dân sự. Bà Thiều Huỳnh C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai, nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định tại Điều 227, 228, 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn. Căn cứ Điều 35; Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhận thấy: Bà Thiều Huỳnh C có giao kết với Ngân hàng thương mại cổ phần bưu điện L – Chi nhánh T hợp đồng tín dụng số: 1341-16/HĐTD-LPB.TV ngày 13/10/2016. Theo hợp đồng, Ngân hàng đã đồng ý giải ngân cho bà Thiều Huỳnh C vay với số tiền vay gốc hạn mức là 90.000.000 đồng (chín mươi triệu đồng), mục đích vay để tiêu dùng (mua sắm thiết bị, nội thất gia đình,...), thời hạn vay là 60 tháng kể từ ngày nhận tiền vay. Thỏa thuận nợ gốc trả hàng tháng trong 60 tháng, tương ứng với 60 kỳ, số tiền trả từ kỳ thứ 01 đến thứ 59 vào ngày 15 hàng tháng, nợ lãi được trả hàng tháng theo kỳ gốc. Lãi suất vay là 12%/năm, được đảm bảo tuân thủ theo quy định của pháp luật và được điều chỉnh định kỳ theo quy định của Ngân hàng. Lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Bà C đã nhận đủ số tiền vay do Ngân hàng giải ngân theo giấy đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ có bà Thiều Huỳnh C ký tên. Nhận thấy các thỏa thuận trong hợp đồng không trái với quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Do đó, hợp đồng tín dụng các bên giao kết là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bà C đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán đối với Ngân hàng, không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ lãi, nợ gốc đúng hạn như thỏa thuận trong hợp đồng. Mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần thông báo, nhắc nhở cũng như đã làm việc với bà Châu về việc yêu cầu bà thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng nhưng đến nay nghĩa vụ vẫn chưa được thực hiện. Do đó, việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà Thiều Huỳnh C có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng tổng số tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày 19/7/2022 là: 77.619.611 đồng (trong đó: nợ gốc là 47.999.940 đồng, nợ lãi trong hạn là 8.192.948, nợ lãi quá hạn là 21.426.723 đồng). Đồng thời yêu cầu bà Thiều Huỳnh C tiếp tục trả lãi phát sinh theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng đến khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Các yêu cầu này của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại các Điều 292; 344; 345; 357; 463; 466; 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Bị đơn vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án, không có nội dung trình bày ý kiến, cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để phản bác đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 26; Điều 35; Điều 39; Điều 91; Điều 92; Điều 147; Điều 177; Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Áp dụng các Điều 292; 344; 345; 357; 463; 466; 468 Bộ luật dân sự năm 2015;
Áp dụng các Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần bưu điện L.
Buộc bà Thiều Huỳnh C có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần bưu điện L tổng số tiền vay gốc và lãi còn nợ của Hợp đồng tín dụng 1341- 16/HĐTD-LPB.TV ngày 13/10/2016 tính đến ngày 19/7/2022 là: 77.619.611 đồng (bảy mươi bảy triệu, sáu trăm mười chín ngàn, sáu trăm mười một đồng). Trong đó: tiền nợ gốc là 47.999.940 đồng (bốn mươi bảy triệu, chín trăm chín mươi chín ngàn, chín trăm bốn mươi đồng), tiền nợ lãi trong hạn là 8.192.948 đồng (tám triệu một trăm chín mươi hai ngàn, chín trăm bốn mươi tám đồng), tiền nợ lãi quá hạn là 21.426.723 đồng (hai mươi mốt triệu, bốn trăm hai mươi sáu ngàn, bảy trăm hai mươi ba đồng).
Kể từ ngày 20/7/2022 cho đến khi thi hành án xong, bà Thiều Huỳnh C còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng 1341-16/HĐTD-LPB.TV ngày 13/10/2016 nêu trên. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng số 1341-16/HĐTD- LPB.TV ngày 13/10/2016 các bên thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà bà Thiều Huỳnh C phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị đơn bà Thiều Huỳnh C phải chịu số tiền án phí là 3.880.980 đồng (ba triệu tám trăm tám mươi ngàn, chín trăm tám mươi đồng). Nguyên đơn không phải chịu án phí nên hoàn trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần bưu điện L được nhận lại số tiền tạm ứng án phí là 1.752.000 đồng (Một triệu bảy trăm năm mươi hai ngàn đồng) theo lai thu số 0007375 ngày 26/10/2021 tại Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Trà Vinh.
Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt thì được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, phải thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 39/2022/DS-ST
Số hiệu: | 39/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 19/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về