Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 15/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 15/2022/DS-ST NGÀY 09/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 09 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 27/2022/TLST-DS ngày 31 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2022/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2022/QĐST-DS ngày 25 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Đ; địa chỉ trụ sở: 130 P, phường 3, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H; nơi cư trú: số 02, tổ dân phố Đà Nẵng, thị trấn Núi Đèo, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, là đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền số 265/QĐ-DAB-PC ngày 28-02-2020). Có mặt.

- Bị đơn: Bà Hoàng Thị H, nơi cư trú: Thôn 1, xã G, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Hoàng Thị H1; nơi cư trú: Thôn 4, xã G, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngân hàng TMCP Đ – Chi nhánh Hải Phòng – Phòng Giao dịch huyện Thủy Nguyên (sau đây viết tắt là Ngân hàng) và bà Hoàng Thị H có ký hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 01106414-0137351301T20040 ngày 05-10-2020. Theo hợp đồng tín dụng Ngân hàng cho bà H vay 20.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng, lãi suất trong hạn là 9,5%/năm; lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn; mục đích vay: Bổ sung vốn phát triển kinh tế hộ gia đình. Trong quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng, tính đến ngày xét xử sơ thẩm bà H đã trả được 12.983.588 đồng tiền gốc và 1.656.412 đồng tiền lãi trong hạn. Bà H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán và để nợ quá hạn từ ngày 05-7-2021, mặc dù đã nhiều lần Ngân hàng yêu cầu trả nợ nhưng bà H vẫn không thực hiện được. Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà Hoàng Thị H phải trả cho Ngân hàng nợ gốc nợ gốc là 7.016.412 đồng, nợ lãi trong hạn là 243.588 đồng, lãi quá hạn tính đến ngày 09-6-2022 là 928.617 đồng. Tổng cộng: 8.188.617 đồng và tiếp tục phải trả lãi quá hạn phát sinh cho đến khi trả hết nợ. Trong trường hợp bị đơn không thanh toán được khoản nợ nêu trên thì chị Hoàng Thị H1 phải trả nợ thay bà H (chị H1 là người bảo lãnh).

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án cũng như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn bà Hoàng Thị H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Hoàng Thị H1 nhưng bà H và chị H1 không cung cấp lời khai, không lên Tòa án để giải quyết vụ án. Tại các buổi tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải bà H và chị H1 đều vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và bà H và chị H1 cũng không có quan điểm về việc giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và về việc giải quyết vụ án như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ nhưng chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung khởi kiện: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự các điều các điều 116, 117, 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 90, 91 và 95 của Luật các Tổ chức tín dụng, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Hoàng Thị H phải trả cho Ngân hàng theo như hợp đồng tín dụng đã ký kết số tiền nợ gốcvà nợ lãi. Bà H còn phải tiếp tục trả lãi quá hạn phát sinh cho đến khi trả hết nợ gốc. Trường hợp bà Hoàng Thị H không trả được nợ thì chị Hoàng Thị H1 phải có trách nhiện trả nợ thay cho bà H. Bà H phải chịu toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quan hệ pháp luật có tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tranh chấp giữa Ngân hàng TMCP Đ với bà Hoàng Thị H có mục đích chăn nuôi, phát triển kinh tế gia đình nên được xác định là tranh chấp dân sự. Bị đơn hiện đang cư trú tại huyện Thủy Nguyên nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng theo quy định tại Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự có mặt của các đương sự: Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự để tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3]. Về yêu cầu khởi kiện: Hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 01106414- 0137351301T20040 ngày 05-10-2020. giữa Ngân hàng và bà Hoàng Thị H đã ký kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, các chủ thể tham gia ký kết có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự, hình thức và nội dung hợp đồng phù hợp với các quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Bà H đã nhận đủ số tiền vay, nhưng không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền nợ gốc và lãi theo đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng là vi phạm nghĩa vụ của mình theo hợp đồng mà hai bên đã ký kết. Tính đến ngày 09-6-2022 bà H còn nợ Ngân hàng số tiền nợ gốc 7.016.412 đồng, tiền lãi trong hạn: 243.588 đồng, nợ lãi quá hạn 928.617 đồng. Tổng cộng: 8.188.617 đồng. Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà H phải trả số tiền còn nợ nêu trên là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[4]. Khi ký hợp đồng tín dụng, chị Hoàng Thị H1 là con của bà Hoàng Thị H có cam kết tại mục của người bảo lãnh: “bà Hoàng Thị H không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, tôi sẽ trả nợ thay cho người vay đến khi hết nợ vay tại Ngân hàng”. Ngân hàng yêu cầu trong trường hợp bà H không thanh toán được khoản nợ nêu trên thì chị Hoàng Thị H1 phải trả nợ thay bà H là có căn cứ chấp nhận.

[5] Về án phí: Bị đơn phải chịu toàn bộ án dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Hoàn trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 116, 117, 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 90, 91 và 95 của Luật các Tổ chức tín dụngLuật phí và lệ phí, Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đ buộc bà Hoàng Thị H phải trả nợ cho Ngân hàng theo Hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 01106414-0137351301T20040 ngày 05-10-2020 số tiền nợ gốc 7.016.412 đồng, tiền lãi trong hạn: 243.588 đồng, nợ lãi quá hạn tính đến hết ngày 09-6-2022 là 928.617 đồng. Tổng cộng: 8.188.617 (m triệu, một trăm tám tám nghìn, sáu trăm mười bảy) đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Trong trường hợp bà Hoàng Thị H không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, chị Hoàng Thị H1 phải có trách nhiệm trả nợ toàn bộ khoản nợ gốc và nợ lãi thay cho bà Hoàng Thị H theo Hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 01106414- 0137351301T20040 ngày 05-10-2020.

Về án phí sơ thẩm: Bà Hoàng Thị H phải chịu 409.000 đồng án dân sự sơ thẩm. Trả lại Ngân hàng TMCP Đ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng tại biên lai thu số 0007873 ngày 31 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.

Về quyền kháng cáo: Ngân hàng TMCP Đ được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Hoàng Thị H, chị Hoàng Thị H1 quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 15/2022/DS-ST

Số hiệu:15/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về