Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 11/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH V

BẢN ÁN 11/2021/DS-ST NGÀY 27/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 27 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh V mở phiên tòa công khai xét xử vụ án dân sự thụ lý số: 48/2020/TLST -DS ngày 20 tháng 10 năm 2020 về việc“ Tranh chấp hợp đồng tín dụng ” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2021/QĐXXST – DS ngày 15 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) Quốc tế Việt Nam (VIB).

Địa chỉ: Tầng 1, 2 Tòa nhà S, số * đường P, phường Bến Nghé, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Hàn Ngọc V – Tổng giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị Thu H – Giám đốc Trung tâm Quản lý nợ khách hàng cá nhân (theo văn bản ủy quyền số 3.0141.17 ngày 16/01/2017).

Người được ủy quyền lại: Ông Chu Cao Th, sinh năm 1979- Cán bộ Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam, có mặt (theo văn bản ủy quyền số 98275.20 ngày 15/10/2020).

Bị đơn: 1.Anh Trần Anh V, sinh năm 1976, vắng mặt Nơi cư trú: Thôn V, xã L, huyện L, tỉnh V 2. Chị Hà Thị S, sinh năm 1979 (đã chết)

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Anh T, sinh năm 1998, vắng mặt

2. Cháu Trần Phi H, sinh năm 2004, vắng mặt

Người giám hộ: Anh Trần Anh V, sinh năm 1976 (bố đẻ) Đều cư trú: Thôn V, xã L, huyện L, tỉnh V.

3. Bà Hoàng Thị H, sinh năm 1933, vắng mặt Nơi cư trú: Thôn Th, xã L, huyện L, tỉnh V.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 31 tháng 12 năm 2019 và các lời trình bày tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Chu Cao Thắng trình bày:

Ngày 22/12/2016 Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (gọi tắt là VIB) đã ký Hợp đồng tín dụng số: 5.543.16.HĐTD.056 với vợ chồng anh Trần Anh V và chị Hà Thị S ở thôn V, xã L, huyện L, tỉnh V. Cụ thể, Ngân hàng chấp thuận cho anh V, chị S vay số tiền là 400.000.000đồng (Bốn trăm triệu đồng chẵn). Mục đích vay: Để hoàn thiện nhà ở trên nền đất cũ. Thời hạn vay: 180 tháng, kể từ ngày 22/12/2016 đến ngày 22/12/2031. Lãi suất vay: Lãi suất cho vay thả nổi, chịu sự điều chỉnh theo quy định về lãi suất của VIB từng thời kỳ, phù hợp với quy định của pháp luật và được VIB chủ động xác định tại thời điểm giải ngân (lãi suất tại thời điểm giải ngân là 8,99%), hiện tại lãi suất áp dụng mức 12,79%/năm từ ngày 23/9/2019 đến nay. Phương thức trả nợ: Trả nợ gốc hàng tháng vào ngày 25 với số tiền 2.223.000đ/tháng, ngày trả nợ lãi cũng vào ngày 25 hàng tháng tính theo dư nợ gốc thực tế, ngày trả nợ gốc và lãi đầu tiên là 25/01/2017.

Hợp đồng tín dụng này được bảo đảm bằng hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất số: 5.543.16.HDDTC.056 ngày 21/12/2016 và được công chứng số:5026/2016/HĐTC, quyển số: 08TP/CC-SCC/HĐGD ngày 21/12/2016 và hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất. Theo đó, Trần Anh V và chị Hà Thị S đã dùng tài sản thế chấp là quyền sử dụng 523m2 đất thuộc thửa số 30.3, tờ bản đồ số 11 thuộc thôn V, xã L, huyện L, tỉnh V, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: BB634315 do Ủy ban nhân dân huyện L cấp ngày 27/01/2011 cho hộ ông Trần Anh V và tài sản gắn liền trên đất là 01 ngôi nhà hai tầng diện tích 200m2. Tài sản theo hợp đồng này bao gồm nhưng không giới hạn các vật phụ, hoa lợi, lợi tức, các quyền phát sinh từ tài sản thế chấp, tài sản hay tiền đền bù, bồi thường của cơ quan nhà nước hoặc bên thứ ba bất kỳ và toàn bộ các quyền, quyền lợi theo hợp đồng bảo hiểm ký giữa bên B và công ty bảo hiểm bất kỳ được bên A chấp thuận.

Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất được công chứng tại Văn phòng công chứng Vĩnh Phú và đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh V, chi nhánh L theo đúng quy định của pháp luật.

Sau khi ký kết hợp đồng tín dụng, Ngân hàng VIB đã giải ngân cho anh Trần Anh V và chị Hà Thị S tổng số tiền vay là 400.000.000đồng ( Bốn trăm triệu đồng) theo khế ước nhận nợ ngày 22/12/2016.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng anh Trần Anh V và chị Hà Thị S đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình theo đúng nội dung hợp đồng tín dụng đã ký (trả một phần gốc và lãi vào ngày 25 hàng tháng). Ngân hàng VIB đã nhiều lần làm việc với anh Trần Anh V và chị Hà Thị S để yêu cầu trả nợ vay đúng thời hạn quy định trong hợp đồng, nhưng anh V, chị Sáu không thực hiện và đã vi phạm các điều khoản đã ký trong hợp đồng tín dụng nên Ngân hàng VIB đã chuyển khoản vay trên thành nợ quá hạn từ ngày 25/10/2018. Trong quá trình trả nợ vay, anh V và chị S đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho ngân hàng VIB tính đến hết ngày 26/7/2021 là 134.250.077đồng (Một trăm ba mươi tư triệu hai trăm năm mươi nghìn không trăm bảy mươi bảy đồng), trong đó: nợ gốc là: 62.244.000đồng, lãi trong hạn là:

69.963.163đồng và lãi quá hạn là 2.042.914đồng và còn nợ Ngân hàng VIB tính đến ngày xét xử sơ thẩm 27/7/2021 tổng số tiền là: 496.465.261đồng (Bốn trăm chín mươi sáu triệu bốn trăm sáu mươi năm nghìn hai trăm sáu mươi mốt đồng), trong đó nợ tiền gốc là: 337.756.000đồng, lãi trong hạn là: 114.594.429đồng, lãi quá hạn là:

44.114.832đồng. Số tiền nợ gốc quá hạn và lãi trên, Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, song vợ chồng anh V vẫn không thanh toán đúng hạn như đã cam kết trong hợp đồng. Nay Ngân hàng VIB yêu cầu buộc anh Trần Anh V và chị Hà Thị S trả nợ cho Ngân hàng VIB tổng số tiền là: 496.465.261đồng (Bốn trăm chín mươi sáu triệu bốn trăm sáu mươi năm nghìn hai trăm sáu mươi mốt đồng), trong đó nợ tiền gốc là:

337.756.000đồng, lãi trong hạn là: 114.594.429đồng, lãi quá hạn là: 44.114.832đồng và tiếp tục trả lãi, lãi quá hạn phát sinh trên số tiền gốc kể từ ngày 27/7/2021 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ theo mức lãi suất quy định trong hợp đồng tín dụng số:

5.543.16.HĐTD.056 ký kết ngày 22/12/2016. Trường hợp anh V, chị S không trả hết nợ thì Ngân hàng VIB có quyền yêu cầu và cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền xử lý tài sản bảo đảm là thửa đất số 30.3 diện tích 523m2, tờ bản đồ số 11 và tài sản gắn liền trên đất là ngôi nhà 02 tầng diện tích 200m2 tại thôn V, xã L, huyện L, tỉnh V. Nếu sau khi xử lý tài sản bảo đảm vẫn không đủ để thanh toán toàn bộ khoản nợ của anh V, chị S với Ngân hàng thì anh V, chị S phải tiếp tục trả hết các khoản nợ cho Ngân hàng VIB.

Bị đơn anh Trần Anh V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh V vẫn vắng mặt không có lý do và không hợp tác làm việc.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà Hoàng Thị H trình bày: Bà là mẹ đẻ của chị Hà Thị S. Khoảng năm 1996, 1997 gia đình bà có tổ chức cưới cho chị Hà Thị S và anh Trần Anh V. Sau khi cưới chị S về sinh sống cùng gia đình anh V ở thôn V, xã L. Việc vay nợ của anh V, chị S với Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam như thế nào bà không nắm được, không liên quan gì đến việc vay nợ này. Khi anh V, chị S có thế chấp khoản vay không bà cũng không được biết. Chồng bà là ông Hà Sỹ T chết năm 2006, còn con gái bà Hà Thị S chết năm 2017. Đối với khoản vay ngân hàng và tài sản thế chấp cho khoản vay này là diện tích đất 523m2 tại thửa đất số 30.3, tờ bản đồ số 11 tại thôn V, xã L và các tài sản trên đất là của vợ chồng anh V, chị S bà không liên quan gì đến khoản vay và thửa đất này, hiện thửa đất này anh V vẫn đang quản lý, chị S chết bà cũng không được hưởng bất kỳ tài sản gì. Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu anh V, chị S trả lại số tiền đã vay, nếu không trả được sẽ xử lý tài sản bảo đảm bà không có ý kiến gì, bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Anh Trần Anh T và cháu Trần Phi H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đã tuân theo đúng quy định về thụ lý vụ án, xác định tư cách tố tụng của các đương sự, xác định quan hệ tranh chấp, tiến hành xác minh thu thập chứng cứ đúng theo trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án: Do anh Trần Anh V vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng, do đó cần chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của Ngân hàng VIB buộc anh V, chị S phải trả Ngân hàng VIB tổng số tiền gốc và lãi tính đến ngày 26/7/2019 là: 496.465.261đồng (Bốn trăm chín mươi sáu triệu bốn trăm sáu mươi năm nghìn hai trăm sáu mươi mốt đồng), trong đó nợ tiền gốc là: 337.756.000đồng, lãi trong hạn là:

114.594.429đồng, lãi quá hạn là: 44.114.832đồng. Tuy nhiên, hiện chị S đã chết nên anh V có nghĩa vụ phải trả lại toàn bộ số nợ này cho ngân hàng. Trường hợp anh V, chị S không trả hết nợ thì Ngân hàng VIB có quyền yêu cầu và cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền xử lý tài sản bảo đảm là thửa đất số 30.3 diện tích 523m2, tờ bản đồ số 11 và tài sản gắn liền trên đất là ngôi nhà 02 tầng diện tích 200m2 tại thôn V, xã L, huyện L, tỉnh V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Trong đơn khởi kiện đề ngày 31/12/2019 của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam yêu cầu anh Trần Anh V và chị Hà Thị S trả lại Ngân hàng toàn bộ số tiền còn nợ lại theo hợp đồng tín dụng đã ký. Tòa án nhân dân huyện L đã thụ lý xác định quan hệ pháp luật “tranh chấp hợp đồng tín dụng” và giải quyết theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị đơn anh Trần Anh V vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào các Điều 199, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn xét xử vắng mặt anh Vũ.

Bị đơn chị Hà Thị S đã chết nên người thừa kế quyền và nghĩa vụ của chị S là anh Trần Anh V và anh Trần Anh T, cháu Trần Phi H và bà Hoàng Thị H vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào các Điều 199, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn xét xử vắng mặt anh V, anh Tuấn A, cháu H, bà H.

Xét về chủ thể tham gia ký kết hợp đồng tín dụng đều đúng quy định của pháp luật và đủ năng lực hành vi dân sự. Việc ký kết hợp đồng giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện và tuân thủ đúng pháp luật về hình thức và nội dung.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hợp đồng tín dụng: Theo nội dung hợp đồng tín dụng số: : 5.543.16.HĐTD.056 ký kết ngày 22/12/2016 được ký kết giữa Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam và vợ chồng anh Trần Anh V, chị Hà Thị S, Ngân hàng cho vợ chồng anh anh V, chị S vay số tiền 400.000.000đồng (Bốn trăm triệu đồng), số tiền này Ngân hàng đã thực hiện đúng nghĩa vụ của bên cho vay và giải ngân theo đúng thỏa thuận ghi trong hợp đồng tín dụng. Kể từ khi vay vốn cho đến nay Ngân hàng xác định vợ chồng anh V, chị S đã trả cho Ngân hàng tính đến ngày xét xử sơ thẩm 27/7/2021 là: 134.250.077đồng (Một trăm ba mươi tư triệu hai trăm năm mươi nghìn không trăm bảy mươi bảy đồng), trong đó: nợ gốc là: 62.244.000đồng, lãi trong hạn là: 69.963.163đồng và lãi quá hạn là 2.042.914đồng và còn nợ Ngân hàng VIB tổng số tiền là: 496.465.261đồng (Bốn trăm chín mươi sáu triệu bốn trăm sáu mươi năm nghìn hai trăm sáu mươi mốt đồng), trong đó nợ tiền gốc là: 337.756.000đồng, lãi trong hạn là: 114.594.429đồng, lãi quá hạn là: 44.114.832đồng.

Phía anh V, chị S đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng, anh V, chị S đã không trả số tiền gốc: 2.223.000đồng và lãi trên toàn bộ nợ gốc vào ngày 25 hàng tháng như đã cam kết, cụ thể từ ngày 25/8/2018 đến nay, anh V, chị S đã nhiều lần vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Ngân hàng VIB đã thông báo nhiều lần nhưng anh chị vẫn không trả đúng hạn, đến ngày 25/10/2018 Ngân hàng VIB đã có thông báo về nợ quá hạn, cảnh báo xử lý tài sản thế chấp đến anh V, chị S nhưng anh anh V, chị S vẫn không trả. Như vậy, việc Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh Trần Anh V và chị Hà Thị S phải trả các khoản tiền gốc và lãi còn nợ tính đến hết ngày 26/7/2021 theo hợp đồng tín dụng là có căn cứ. Trong vụ án này nguyên đơn có yêu cầu vợ chồng anh V, chị S cùng phải trả khoản nợ trên. Tuy nhiên, chị S đã chết từ năm 2017, hàng thừa kế thứ nhất của chị S là anh V, cháu Tuấn A, cháu H và bà H chưa được phân chia di sản do chị S để lại và những người này chưa có thỏa thuận về việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với của chị S nên cháu Tuấn A, cháu H, bà H không có trách nhiệm đối với khoản nợ này. Anh V, chị S là vợ chồng, việc vay nợ do anh V, chị S cùng thỏa thuận, xác lập nên đây là khoản nợ chung của chồng anh V, chị S là chính xác. Theo khoản 2 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình quy định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng: “ Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này” và Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình quy định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng: “ Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây: 1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận, xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm”. Như vậy, khi chị S chết thì anh V phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ của chị S.

Cần buộc Anh Trần Anh V trả nợ cho Ngân hàng VIB tổng số tiền là: 496.465.261đồng (Bốn trăm chín mươi sáu triệu bốn trăm sáu mươi năm nghìn hai trăm sáu mươi mốt đồng), trong đó nợ tiền gốc là: 337.756.000đồng, lãi trong hạn là: 114.594.429đồng, lãi quá hạn là: 44.114.832đồng.

[2.2] Về hợp đồng thế chấp:

Để đảm bảo cho khoản vay đối với Ngân hàng VIB, phía bị đơn là vợ chồng anh Vũ, chị Sáu đã ký kết hợp đồng thế chấp tài sản số: 5.543.16.HDDTC.056 ngày 21/12/2016, thế chấp 523m2 đất thuộc thửa số 30.3, tờ bản đồ số 11 và tài sản gắn liền trên đất tại thôn V, xã L, huyện L, tỉnh V, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: BB634315 do Ủy ban nhân dân huyện L cấp ngày 27/01/2011 cho hộ ông Trần Anh V và tài sản gắn liền trên đất là 01 ngôi nhà hai tầng diện tích 200m2. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án phối hợp với chính quyền địa phương để xem xét, thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp, tuy nhiên anh Trần Anh V và gia đình không hợp tác nên Hội đồng xét xử căn cứ theo số liệu trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trong hợp đồng thế chấp để làm căn cứ giải quyết. Trong hợp đồng thế chấp, anh V, chị S có thế chấp quyền sử dụng đất và 01 ngôi nhà 02 tầng diện tích 200m2. Tuy nhiên, trên đất theo quan sát còn 01 nhà bếp và một số cây cối lâm lộc. Theo quy định tại khoản 1 Điều 325 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “ Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Qua xem xét hợp đồng thế chấp hai bên không thỏa thuận khác, tất cả những tài sản trên đất của thửa đất số 30.3, tờ bản đồ số 11, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB634315 do Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh V cấp ngày 27/01/2011, qua xác minh tại địa phương đều thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông anh V, chị S. Vì vậy, những tài sản trên đất không nêu trong hợp đồng thế chấp gồm: 01 nhà bếp và một số cây cối lâm lộc trên đất đều được xử lý cùng tài sản thế chấp. Xét thấy, Hợp đồng thế chấp trên đảm bảo có hiệu lực của hợp đồng tín dụng, do đó phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định tài sản thế chấp đảm bảo cho khoản vay của anh Trần Anh V và chị Hà Thị S tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng là tài sản hợp pháp của vợ chồng anh V, chị S và các con. Cả hai vợ chồng, cùng con lớn là cháu Tuấn A đều ký kết vào hợp đồng thế chấp và đều có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Mục đích và nội dung của hợp đồng thế chấp hoàn toàn tự nguyện. Hợp đồng thế chấp đều được công chứng tại Văn phòng công chứng Vĩnh Phú và đăng ký thế chấp tại Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh L theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, trường hợp anh Vũ không trả nợ cho Ngân hàng VIB thì Ngân hàng VIB có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có quyền xử lý tài sản bảo đảm trên để thu hồi nợ. Nếu sau khi xử lý tài sản bảo đảm vẫn không đủ để thanh toán toàn bộ khoản nợ thì anh V phải tiếp tục sử dụng tài sản chung còn lại của vợ chồng (nếu có) và tài sản riêng của anh Vũ để thực hiện việc thanh toán khoản còn thiếu cho đến khi thanh toán đủ. Trường hợp số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bảo đảm vượt quá phần nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng VIB phải thanh toán trả lại anh V phần vượt quá nghĩa vụ trả nợ.

[3] Về án phí: Anh V phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận. Do vậy, nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 471, 473, 474, 476 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 91, 95, 98 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 26 Luật thi hành án dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB) đối với vợ chồng anh Trần Anh V và chị Hà Thị S.

Buộc anh Trần Anh Vũ phải có nghĩa vụ trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam tổng số tiền tính đến ngày 26/7/2019 là: 496.465.261đồng (Bốn trăm chín mươi sáu triệu bốn trăm sáu mươi năm nghìn hai trăm sáu mươi mốt đồng), trong đó nợ tiền gốc là: 337.756.000đồng, lãi trong hạn là: 114.594.429đồng, lãi quá hạn là: 44.114.832đồng.

Kể từ ngày 27/7/2021, anh V tiếp tục phải chịu khoản tiền lãi như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số: 5.543.16.HĐTD.056 ngày 22/12/2016 được ký kết giữa Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam và vợ chồng anh Trần Anh V và chị Hà Thị S đối với khoản nợ gốc chưa thanh toán cho đến khi thanh toán xong. Trường hợp anh V không trả được nợ hoặc trả không đầy đủ cho Ngân hàng VIB thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án xử lý tài sản bảo đảm là thửa số 30.3, tờ bản đồ số 11 diện tích 523 m2 và tài sản gắn liền trên đất tại thôn V, xã L, huyện L, tỉnh V, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: BB634315 do Ủy ban nhân dân huyện L cấp ngày 27/01/2011 cho hộ anh Trần Anh V để thu hồi nợ. Nếu sau khi xử lý tài sản bảo đảm vẫn không đủ để thanh toán toàn bộ khoản nợ thì anh V phải tiếp tục sử dụng tài sản chung còn lại của vợ chồng (nếu có) và tài sản riêng của anh V để thực hiện việc thanh toán khoản còn thiếu cho đến khi thanh toán đủ. Trường hợp số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bảo đảm vượt quá phần nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng VIB phải thanh toán trả lại anh Vũ phần vượt quá nghĩa vụ trả nợ.

Về án phí: Buộc anh Trần Anh V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 23.659.000đồng (Hai mươi ba triệu sáu trăm năm mươi chín nghìn đồng).

Trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam số tiền: 10.000.000đồng (Mười triệu nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số: AA/2020/0001010 ngày 20/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện L.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày giao nhận bản án hoặc niêm yết công khai tại UBND nơi cư trú của người vắng mặt để yêu cầu xét xử phúc thẩm./.

Theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 11/2021/DS-ST

Số hiệu:11/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về