TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 05/2022/KDTM-PT NGÀY 07/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 07 tháng 7 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 04/2022/TLPT- KDTM ngày 09 tháng 3 năm 2022 về việc :“Tranh chấp hợp đồng tín dụng” do bản án Dân sự sơ thẩm số 02/2022/KDTM-ST ngày 24/01/2022 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới bị kháng cáo theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1019/2022/QĐ-PT ngày 13/5/2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP MTV Đại D; địa chỉ: Số m, đường Nguyễn Lương B, phường T, TP. Hải D, tỉnh Hải D; đại diện theo pháp luật: ông Đỗ Thanh S – Chủ tịch Hội đồng Thành viên; đại diện theo ủy quyền: ông Trần Trung D - Chức vụ: Phó tổng giám đốc. (Theo văn bản ủy quyền số: 303/2020/UQ-NĐDPL.12.01 ngày 08/7/2020). Ông: Đàm Thanh Tú - Chức vụ: Giám đốc Chi nhánh Đà Nẵng; Ông: Phạm Tr – Chức vụ: Phó giám đốc chi nhánh Đ; Ông: Hà Đỗ Vĩnh Ph – Chức vụ: Giám đốc Phòng KHDN – CN Đ Ông: Võ Lê L – Chức vụ: Giám đốc Phòng KHBL–CN Đ; (Theo Văn bản ủy quyền số: 386/2020/UQ-OCEANBANK.05.02 ngày 24/7/2020); Bà Trịnh Thị Th, Trưởng phòng Tố tụng – Khối quản lý nợ có vấn đề (theo văn bản ủy quyền ngày 01/7/2022; Bà Th, ông L có mặt.
- Bị đơn: Công ty TNHH Địa Cầu X (viết tắt: Công ty Địa Cầu X); địa chỉ: b, đường Lương Thế V, phường Đ, TP Đ, Quảng Bình; đại diện theo pháp luật: ông Lê Văn H - Chủ tịch HĐTV kiêm Giám đốc Công ty, vắng mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng P Việt Nam; địa chỉ: số h C, quận Đ, TP. Hà Nội. Đại diện theo pháp luật: Ông Đào Quang Tr– Tổng giám đốc. Đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Bá S – Giám đốc Ngân hàng P Việt Nam chi nhánh Quảng Bình. (Theo Giấy ủy quyền số: 2404/GUQ- NHPT-PC ngày 29/12/2020).
Người được ủy quyền hiện tại: ông Lê Q - Phó giám đốc Ngân hàng P chi nhánh Quảng Bình (Theo Giấy ủy quyền số:72/GUQ- NHPT.QBI-KT ngày 09/03/2021). Ông Q có mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Minh T – Luật sư, Văn phòng Luật sư Hướng D, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Bình, địa chỉ: Số h, đường T, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn trình bày: Công ty TNHH Địa Cầu X vay vốn tại Ngân hàng Thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đại D theo Hợp đồng tín dụng trung, dài hạn số 0073/2009/HĐTD1-OCEANBANK 06 ngày 22/05/2009 và các phụ lục kèm theo (sau đây gọi tắt là Hợp đồng tín dụng). Theo các giấy nhận nợ (hoặc Khế ước nhận nợ) từ số 01 đến 15 thuộc Hợp đồng tín dụng, OceanBank đã giải ngân cho Công ty Địa Cầu X tổng cộng số tiền là: 8.452.653.000 đồng.Tài sản đảm bảo cho khoản vay là Chứng thư bảo lãnh số 03/NHPT.QBI-CTBL ngày 26/05/2009 và các chứng thư sửa đổi kèm theo của Ngân hàng Phát triển Việt Nam – chi nhánh Quảng Bình. Quá trình thực hiện hợp đồng, công ty Địa Cầu X đã trả cho Ngân hàng Đại D là 6.525.411.966đ (trong đó nợ gốc đã trả là:
2.586.083.048đ, nợ lãi phạt đã trả: 3.939.328.918đ) sau đó đã để phát sinh nợ quá hạn từ ngày 14/01/2013. Mặc dù ngân hàng Đại D đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nhở và tạo điều kiện để Công ty Địa Cầu X khắc phục khó khăn, thu xếp thanh toán khoản nợ cho Đại D nhưng Công ty Địa Cầu X không hợp tác, không đưa ra được phương án trả nợ khả thi cho ngân hàng Đại D. Để đảm bảo thu hồi vốn vay, ngân hàng Đại D yêu cầu Tòa án buộc Công ty Địa Cầu X phải thanh toán cho ngân hàng Đại D số tiền nợ tạm tính đến ngày 24/01/2022 là 6.884.196.713 đồng (trong đó: nợ gốc là 910.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 944.973.607 đồng, lãi trên gốc quá hạn là 3.062.205.205 đồng, phạt lãi quá hạn là 1.967.017.901đ). Đề nghị Tòa án tiếp tục tính lãi theo Hợp đồng tín dụng trung, dài hạn số 0073/2009/HĐTD- Oceanbank 06 ngày 22/5/2009 cho đến ngày Công ty Địa Cầu X thanh toán được toàn bộ khoản nợ. Buộc Công ty Địa Cầu X phải ký quỹ số tiền hỗ trợ lãi suất 572.808.289đ tại ngân hàng Đại D. Sau khi Ngân hàng nhà nước quyết toán xong tiền hỗ trợ lãi suất cho ngân hàng Đại D, ngân hàng Đại D sẽ quyết toán lại cho công ty Địa Cầu X và hoàn trả số tiền chênh lệch (nếu có).
Ngân hàng P Việt Nam Chi nhánh Quảng Bình đã chấp thuận thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trả nợ thay cho công ty Địa Cầu X qua 02 lần trả nợ thay theo Chứng thư bảo lãnh số 03/NHPT.QBI-CTBL ngày 26/5/2009 và các chứng thư sửa đổi kèm theo. Trong trường hợp Công ty Địa Cầu X không trả nợ, đề nghị Tòa án tuyên VDB phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trả nợ thay cho Công ty Địa Cầu X để thanh toán nợ cho ngân hàng Đại D theo Chứng thư bảo lãnh số 03/NHPT.QBI-CTBL ngày 26/05/2009 và các chứng thư sửa đổi kèm theo. Số liệu nghĩa vụ của VDB phải thực hiện thanh toán trả thay cho Công ty Địa Cầu X tính đến ngày 24/01/2022là 3.050.491.396đ, trong đó: nợ gốc là 910.000.000đ, nợ lãi trong hạn là 323.941.668đ, lãi trên gốc quá hạn là 1.816.549.728đ. (cụ thể: lãi còn lại đối với khoản tiền gốc 2.540.000đ đã thực hiện bảo lãnh lần hai là: 1.094.356.347đ; gốc, lãi phát sinh trên số tiền 910.000.000đ liên quan đến hạng mục xe tải cẩu là: 1.956.135.049đ.) Đề nghị Tòa án tiếp tục tính lãi theo Chứng thư bảo lãnh số 03/NHPT.QBI-CTBL ngày 26/5/2009 và các chứng thư sửa đổi kèm theo cho đến ngày Công ty Địa Cầu X thanh toán được toàn bộ khoản nợ.
Đối với bị đơn: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã ra Thông báo thụ lý vụ án và gửi cho bị đơn kèm theo giấy triệu tập đến tòa án nhưng bị đơn không đến Tòa án theo thời gian quy định. Qua xác minh, trao đổi thông tin của Công an thành phố Đồng Hới xác định hiện nay Công ty TNHH Địa Cầu X không có trụ sở tại số 47, đường Lương Thế Vinh, tổ dân phố Đồng Tâm, phường Đồng Hải, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình và ông Lê Văn Học – Giám đốc Công ty TNHH Địa Cầu X hiện không sinh sống tại địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú nhưng vẫn còn ĐKNKTT, chưa cắt chuyển hộ khẩu. Theo Công văn số 132/QLXNC-P5 ngày 31/12/2020 của Cục Quản lý xuất nhập cảnh phúc đáp Công văn số 2610/2020/CV-DS ngày 23/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã xác định: ông Lê Văn H đã xuất nhập cảnh 09 lần và lần nhập cảnh cuối cùng vào ngày 02/9/2005. Ngày 04/01/2021, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã có Công văn số 08/2021/TA-KDTM đề nghị Phòng đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Quảng Bình xác định thông tin về tình trạng hoạt động của Công ty TNHH Địa Cầu X; Ngày 21/01/2021 Phòng đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Quảng Bình đã có Công văn phúc đáp số 03/KHĐT-ĐK, xác định hiện nay Công ty TNHH Địa Cầu X tại hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp: Thông báo quyết định giải thể (Doanh nghiệp đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo Quyết định số: 13084/17 cuả Trưởng phòng Đăng ký kinh doanh ngày 08/12/2017). Trạng thái hậu kiểm hiện tại của doanh nghiệp trên hệ thống quản lý doanh nghiệp sau đăng ký: Bị khóa. Sau khi bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, công ty không đến làm thủ tục giải thể. Về địa chỉ: Công ty chỉ đăng ký 1 địa chỉ trụ sở từ khi thành lập đến nay, không thông báo thay đổi. Tòa án đã tiến hành ra thông báo về phiên họp về việc kiểm tra, giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tiến hành tống đạt, niêm yết cho bị đơn Công ty TNHH Địa Cầu X tại địa chỉ đăng ký trong giấy phép kinh doanh nhưng bị đơn không có mặt.
Ý kiến trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Đối với việc Ngân hàng TM TNHH MTV Đại D khởi kiện Công ty TNHH Địa Cầu X, VDB không có ý kiến gì.
+ Về nội dung Ngân hàng TM TNHH MTV Đại D yêu cầu VDB thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay Công ty TNHH Địa Cầu X trong trường hợp không thu hồi được nợ từ Công ty TNHH Địa Cầu X, VDB có ý kiến như sau: Hiện nay, dư nợ của dự án Nhà máy cơ khí tổng hợp tại Ngân hàng TM TNHH MTV Đại D gồm 02 phần: Phần thứ nhất là dư nợ gốc 910.000.000 đồng tương đương với hạng mục ô tô tải cẩu và toàn bộ lãi phát sinh liên quan đến hạng mục này; Phần thứ hai là số tiền lãi còn lại trên khoản nợ gốc 2.540.000.000đ.
- Đối với khoản nợ gốc 910.000.000 đồng tương đương hạng mục xe ô tô tải cẩu và phần lãi phát sinh liên quan đến hạng mục xe ô tô tải cẩu, VDB từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Cụ thể:
+ Tại Điều 7, Hợp đồng Bảo lãnh vay vốn số 02/2009/NHPT.QBI-BLDA ngày 26/5/2009 quy định: Bên được bảo lãnh là Công ty TNHH Địa Cầu X không được sử dụng tài sản bảo đảm cho bảo lãnh làm tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ khác hoặc dùng tài sản góp vốn kinh doanh, đầu tư vào doanh nghiệp khác.
+ Tại Điểm 2, Chứng thư bảo lãnh số 03/NHPT.QBI-CTBL ngày 26/5/2009 quy định: Khi dự án hoàn thành, Bên được bảo lãnh là Công ty TNHH Địa Cầu X có trách nhiệm chuyển giao toàn bộ giấy tờ (bản gốc) liên quan đến tài sản hình thành từ vốn vay được bảo lãnh cho Bên bảo lãnh là VDB Tuy nhiên, sau khi dự án hoàn thành đưa vào sử dụng Công ty TNHH Địa Cầu X không thực hiện việc bàn giao Giấy chứng nhận đăng ký ô tô đối với xe ô tô tải cẩu cho VDB mà sử dụng vào mục đích khác. Như vậy, Công ty TNHH Địa Cầu X đã vi phạm các cam kết tại Hợp đồng Bảo lãnh và Chứng thư bảo lãnh.
Căn cứ khoản k, điểm 1, điều 14 tại Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 về việc Ban hành Quy chế Bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng thương mại: NHPT có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi Bên được bảo lãnh vi phạm Hợp đồng bảo lãnh vay vốn hoặc Chứng thư bảo lãnh, VDB từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với phần dư nợ gốc 910.000.000 đồng và lãi phát sinh liên quan đến hạng mục xe ô tô tải cẩu. Do đó, tại các Công văn số 302/NHPT.QBI-TD ngày 24/8/2018,Công văn 251/NHPT.QBI-TD ngày 21/8/2019, Công văn 78/NHPT.QBI-TD ngày 09/3/2020 Chi nhánh NHPT Quảng Bình đã đề nghị Ngân hàng TM TNHH MTV Đại D trực tiếp thu hồi khoản nợ trên từ Công ty TNHH Địa Cầu X.
Do đó, VDB từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là đúng quy định của Pháp luật. VDB không có trách nhiệm trả nợ thay cho Công ty TNHH Địa Cầu X trong trường hợp Ngân hàng TM TNHH MTV Đại D không thu hồi được nợ từ Công ty TNHH Địa Cầu X.
- Đối với các khoản lãi phát sinh trên các hạng mục tài sản khác, VDB có ý kiến như sau:
+ Tại Điều 14 Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành Quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng thương mại quy định: Bên bảo lãnh được quyền phối hợp với Bên nhận bảo lãnh kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn và hoàn trả nợ của Bên được bảo lãnh; Bên bảo lãnh được yêu cầu Bên được bảo lãnh và Bên nhận bảo lãnh cung cấp thông tin và báo cáo định kỳ, đột xuất về tình hình hoạt động của Bên được bảo lãnh liên quan đến việc bảo lãnh vay vốn.
+ Trong 02 lần trả nợ thay đối với dự án Nhà máy cơ khí tổng hợp, VDB đã tạm chấp thuận các số liệu về dư nợ gốc, lãi do Ngân hàng TM TNHH MTV Đại D cung cấp. Vì vậy, tại các Công văn số 256/NHPT.QBI-TD ngày 03/07/2018, Công văn số 302/NHPT.QBI-TD ngày 24/8/2018,Công văn 251/NHPT.QBI-TD ngày 21/8/2019, Công văn 78/NHPT.QBI-TD ngày 09/3/2020 Chi nhánh NHPT Quảng Bình đã đề nghị Ngân hàng TM TNHH MTV Đại D – Chi nhánh Đà Nẵng cung cấp thông tin và phối hợp với Chi nhánh NHPT Quảng Bình thực hiện rà soát số liệu chi tiết về giải ngân, thu nợ, phạm vi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh để xác định chính xác nghĩa vụ bảo lãnh đối với dự án theo đúng quy định. Hồ sơ đề nghị Ngân hàng Đại D cung cấp bao gồm:
- Thông tin về từng lần giải ngân (số tiền, thời gian giải ngân, lãi suất vay vốn áp dụng trong từng thời kỳ).
- Thông tin về trả nợ của Công ty TNHH Địa Cầu X và trả nợ thay của Chi nhánh NHPT Quảng Bình (số tiền trả nợ, thời gian trả nợ, nội dung trả nợ: trả nợ gốc, trả nợ lãi, lãi phạt quá hạn, lãi phạt trong hạn).
Tuy nhiên Ngân hàng TM TNHH MTV Đại D không có Công văn phản hồi, đồng thời không phối hợp cung cấp thông tin, rà soát hồ sơ theo đề nghị của VDB Quảng Bình nên VDB Quảng Bình chưa có đủ thông tin để xác định nghĩa vụ thực hiện bảo lãnh. Mặt khác, việc Ngân hàng TM TNHH MTV Đại D không phối hợp cung cấp thông tin, rà soát hồ sơ theo đề nghị của VDB Quảng Bình là chưa thực hiện đúng theo quy định của Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
+ Về thời hiệu đề nghị áp dụng: Tại Biên bản làm việc ngày 30/5/2017 giữa Chi nhánh NHPT Quảng Bình và Oceanbank chi nhánh Đà Nẵng, Công văn số 164/NHPT.QBI-TD ngày 14/4/2017 về thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh dự án Nhà máy cơ khí tổng hợp, VDB đã từ chối nghĩa vụ bảo lãnh đối với phần gốc và lãi liên quan đến hạng mục xe ô tô tải cẩu do Công ty Địa Cầu X không thực hiện bàn giao Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô tải cẩu và sử dụng tài sản này không đúng mục đích. Tiếp theo đó VDB có các công văn từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nói trên tại Công văn số 256/NHPT.QBI-TD ngày 03/7/2018; Công văn số 251/NHPT.QBI-TD ngày 21/8/2019; Công văn số 78/NHPT.QBI- TD ngày 09/3/2020. Theo quy định tại Điều 429 BLDS thì “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là 3 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. Vì vậy, đề nghị áp dụng thời hiệu giải quyết tranh chấp đã hết đối với yêu cầu buộc VDB thực hiện nghĩa vụ bão lãnh vì đã hết 3 năm. Kể cả phần lãi suất phát sinh trên phần gốc 2.540.000.000đ mà VDB đã thực hiện trả nợ thay cho bị đơn lần hai.
* Ý kiến của Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Lê Minh Tâm – Luật sư, văn phòng Luật sư Hướng D: Thống nhất quan điểm như ý kiến trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan VDB.
- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty TNHH Địa Cầu X trả nợ cho Ngân hàng TM TNHH MTV Đại D tổng số tiền tính đến ngày 24/01/2022 là 6.884.196.713 đồng (trong đó: nợ gốc là 910.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 944.973.607 đồng, lãi trên gốc quá hạn là 3.062.205.205 đồng, phạt lãi quá hạn là 1.967.017.901 đồng). Buộc Công ty Đại Cầu X phải ký quỹ số tiền hỗ trợ lãi suất 572.808.289 đồng tại Oceanbank. Sau khi Ngân hàng nhà nước quyết toán xong tiền hỗ trợ lãi suất cho Oceanbank. Oceanbank sẽ quyết toán lại cho công ty Địa Cầu X và hoàn trả số tiền chênh lệch (nếu có). Trong trường hợp Công ty Địa Cầu X không trả nợ, đề nghị Tòa án tuyên VDB Quảng Bình phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trả nợ thay cho Công ty Địa Cầu X để thanh toán nợ cho Oceanbank theo Chứng thư bảo lãnh số 03/NHPT.QBI-CTBL ngày 26/05/2009 và các chứng thư sửa đổi kèm theo. Số liệu nghĩa vụ của VDB phải thực hiện thanh toán trả thay cho Công ty Địa Cầu X tính đến ngày 24/01/2022 là 3.050.491.396 đồng, trong đó: nợ gốc là 910.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 323.941.668 đồng, lãi trên gốc quá hạn là 1.816.549.728 đồng. (cụ thể: lãi còn lại đối với khoản tiền gốc 2.540.000đ đã thực hiện bảo lãnh lần hai là: 1.094.356.347đ và gốc, lãi phát sinh trên số tiền 910.000.000đ liên quan đến hạng mục xe tải cẩu là: 1.956.135.049đ.). Đề nghị Tòa án tiếp tục tính lãi theo Chứng thư bảo lãnh số 03/NHPT.QBI-CTBL ngày 26/5/2009 và các chứng thư sửa đổi kèm theo cho đến ngày Công ty Địa Cầu X thanh toán được toàn bộ khoản nợ. Bởi vì:
+ ngân hàng Đại D đã cung cấp các hồ sơ cho VDB theo yêu cầu, thể hiện:
Ngày 24/5/2013 chi nhánh NHPT Quảng Bình đã nhận được hồ sơ bổ sung của OJB ĐN theo yêu cầu của chi nhánh. Tại báo cáo kết quả kiểm tra hồ sơ đề nghị thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh “Dự án Nhà máy cơ khí tổng hợp – Công ty TNHH Địa Cầu X” của Liên phòng KT-TH-TD của VDB Quảng Bình tại thời điểm tháng 6/2013 có đề cập nội dung: Ngoài ra có kết quả rà soát toàn bộ các lần giải ngân (GNN 01-15) của Công ty Địa Cầu X gồm đầy đủ thông tin: số tiền nhận nợ, ngày giải ngân, lãi suất, hình thức giải ngân, mục đích vay, chứng từ giải ngân. Công văn số 446/NHPT.QBI-TD ngày 28/6/2013 của VDB Quảng Bình đã tiếp tục yêu cầu Oceanbank và công ty Địa Cầu X hoàn thiện hồ sơ bảo lãnh. Và theo biên bản làm việc 3 bên ngày 05/9/2014, VDB Quảng Bình đã chấp thuận hồ sơ giải ngân và số liệu giải trình của Oceanbank, đồng thời ngày 12/6/2014, VDB đã yêu cầu cung cấp các số liệu về số tiền nhận nợ, trả nợ vay…để thực hiện bảo lãnh. Ngày 08/5/2015, VDB đã có công văn thông báo về việc trả nợ thay. Tương tự ngày 04/5/2017, VDB đã tiếp tục thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh lần 2. Về việc cung cấp các số liệu để VDB thực hiện bảo lãnh, Oceanbank đã gửi công văn cũng như các số liệu tính gốc lãi theo yêu cầu của VDB theo từng thời điểm cụ thể.
+ Đối với khoản nợ gốc 910 triệu đồng tương đương hạng mục xe ô tô tải cẩu và phần lãi phát sinh liên quan đến hạng mục xe ô tô tải cẩu, VDB từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh do công ty Địa Cầu X không thực hiện bàn giao GCNĐKX ô tô đối với xe ô tô tải cẩu cho VDB mà sử dụng vào mục đích khác, công ty Địa Cầu X đã vi phạm các cam kết tại Hợp đồng bảo lãnh và chứng thư bảo lãnh. Oceanbank có ý kiến: GCNĐKX ô tô tải cẩu nói trên được cấp ngày 04/8/2009. Tại Báo cáo kết quả kiểm tra hồ sơ đề nghị thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh “Dự án Nhà máy cơ khí tổng hợp – Công ty TNHH Địa Cầu X” của liên phòng KT-TH-TD của VDB Quảng Bình tại thời điểm tháng 6/2013 có nội dung rà soát giải ngân lần 4 như sau: ngày giải ngân 19/6/2009, số tiền 910.000.000đ; mục đích thanh toán theo Hợp đồng số 74/TH-CX2009 ngày 10/6/2009 ký giữa Công ty Địa Cầu X và Công ty CP Tân Hoa; chứng từ kèm theo: ngoài UNC, GNN, Hợp đồng còn có Cavet xe. Theo tra cứu thông tin đăng ký GDBĐ thì VDB đã đăng ký GDBĐ cho tài sản là xe ô tô Huyndai biển số 73-8795, số khung 036894 tại thời điểm 28/10/2013. Chứng minh tại thời điểm này VDB đã biết sự tồn tại của GCNĐKX đối với tài sản nói trên. Công văn số 446/NHPT.QBI-TD ngày 28/6/2013 của Chi nhánh NHPT Quảng Bình đã tiếp tục yêu cầu Oceanbank và Công ty Địa Cầu X hoàn thiện hồ sơ bảo lãnh. Và theo biên bản làm việc 3 bên ngày 05/9/2014, VDB Quảng Bình đã chấp thuận hồ sơ giải ngân và số liệu giải trình của Oceanbank, đồng thời ngày 12/6/2014, VDB đã yêu cầu cung cấp các số liệu về số tiền nhận nợ, trả nợ vay…để thực hiện bảo lãnh. Ngày 08/5/2015, VDB đã có công văn thông báo về việc trả nợ thay. => Chứng minh VDB đã chấp nhận số tiền giải ngân 910.000.000đ cho xe ô tô tải cẩu là đúng mục đích và đúng quy định. Sau thời điểm này VBD đã chấp nhận thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh lần đầu cho Oceanbank.
VDB đã không làm đúng các thủ tục và quy trình về tài sản bảo đảm khi bảo lãnh là sau khi ký kết hợp đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai, VDB phải đăng ký GDBĐ ngay toàn bộ Nhà máy và các tài sản khác của công ty Địa Cầu X thì Công ty Địa Cầu X sẽ không thực hiện bất kỳ giao dịch nào đối với tài sản hình thành từ vốn vay mà để đến 28/10/2013 mới đăng ký xe ô tô tải cẩu là sai quy trình quy định của NHNN. VDB Quảng Bình trước khi chấp thuận thực hiện bảo lãnh lần 1 cũng như lần 2 theo chứng thư bảo lãnh hồ sơ đã được VDB Việt Nam thông qua và chấp thuận. Nay VDB căn cứ vào việc Công ty Địa Cầu X không cung cấp GCN xe ô tô tải cẩu để từ chối thực hiện bảo lãnh là không đúng quy định quy chế bảo lãnh.
- Bị đơn Công ty TNHH Địa Cầu X vắng mặt nên không có lời trình bày, ý kiến tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, VDB Quảng Bình và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.
* Tại Bản án số 02/2022/KDTM-ST ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã quyết định:
Căn cứ Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm g khoản 1 Điều 40; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng các Điều 429, 688 Bộ luật dân sự 2015; Điều 318, 342, 343, 344, 348, 349, 350, 352, 353, 355, 361, 362, 363, 367, 369, 471, 474, 476 Bộ luật dân sự năm 2005;
- Áp dụng các Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng (2010);
- Căn cứ Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán ngày 11/01/2019 hướng dẫn về áp dụng lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
- Căn cứ Điều 26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Xử: Chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMTNHH MTV Đại D buộc Công ty TNHH Địa Cầu X phải trả cho Ngân hàng TM TNHH MTV Đại D số tiền tính đến ngày 24/01/2022 là: 4.917.178.812 đồng (trong đó: nợ gốc là 910.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 944.973.607 đồng, lãi trên gốc quá hạn là 3.062.205.205 đồng. Bác một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu tính lãi chậm trả, số tiền: 1.967.017.901 đồng.
Buộc Công ty Đại Cầu X phải ký quỹ số tiền hỗ trợ lãi suất 572.808.289 đồng tại Ocean bank. Sau khi ngân hàng nhà nước quyết toán xong tiền hỗ trợ lãi suất cho Ocean bank, Ocean bank sẽ quyết toán lại cho Công ty địa cầu X và hoãn trả tiền chênh lệch (nếu có).
Bác yêu cầu thực hiện nghĩa vụ Bảo lãnh do đã hết thời hiệu ba năm và VDB có yêu cầu áp dụng thời hiệu.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí kinh doanh thương mại , quyền thỏa thuận thi hành án, quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 26/01/2022, Ngân hàng TMCP Ocean Bank có kháng cáo với nội dung kháng cáo toàn bộ nội dung Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2022/KDTM-ST ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2022/KDTM-ST ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữa nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng thời hiệu khởi kiện vì quá trình giữa Ngân hàng phát triển và Ngân hàng đại D làm việc với nhau ngày 20/8/2018, Ngân hàng phát triển mới có văn bản từ chối chính thức thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Ngày 23/9/2020, Ngân hàng Đại D khởi kiện là vẫn trong thời hiệu khởi kiện; Về mặt nội dung, theo Ngân hàng Đại D, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng những nội dung của Quyết định 60/2009/QĐ-TTg về sửa đổi Quyết định 14 để giải quyết.
Bị đơn Công ty TNHH Địa Cầu X vắng mặt lần hai không có lý do.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, VDB Quảng Bình và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đề nghị không chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn vì ngày 5/5/2017 và ngày 30/5/2017 Ngân hàng phát triển đã có văn bản từ chối nghĩa vụ bảo lãnh do phía địa cầu X vi phạm thỏa thuận của người được bảo lãnh. Văn bản đã được gửi đến Ngân hàng Đại D nhưng Ngân hàng đại D không có phản hồi gì. Những lần làm việc sau như ngân hàng đại D nêu, ngân hàng phát triển có những thỏa thuận nhưng đi kèm với điều kiện cụ thể chứ không phải thừa nhận lại nghĩa vụ bảo lãnh. Ngân hàng phát triển có quyền đề nghị xóa nợ, không có nghĩa là ngân hàng phát triển thừa nhận lại nghĩa vụ Bảo lãnh. Về mặt nội dung, đề nghị Tòa án xem xét áp dụng quy định của quyết định 14 vì tại thời điểm này ngân hàng phát triển ký chứng thư bảo lãnh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Trong quá trình tiến hành tố tụng, giải quyết vụ án người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Ngân hàng Đại D.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Thẩm quyền giải quyết, người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, giải quyết, thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
[2]. Xét nội dung kháng cáo của Ngân hàng Đại D về việc không áp dụng thời hiệu đối với tranh chấp nghĩa vụ bảo lãnh cũng như áp dụng quyết định 60 (sửa đổi quyết định 14) để xác định vi phạm nghĩa vụ của người được bảo lãnh là Công ty địa cầu X, Hội đồng xét xử thấy: Tại văn bản làm việc ngày 30/5/2017 giữa chi nhánh ngân hàng phát triển Quảng Bình và Ngân hàng Đại D và các văn bản về sau, Ngân hàng Phát triển đã từ chối nghĩa vụ Bảo lãnh đối với hạng mục ô tô tải cẩu (gồm phần gốc và lãi) do Công ty địa cầu X không bàn giao giấy tờ xe như hai bên đã cam kết cũng như sử dụng tài sản này không đúng mục đích (không phục vụ dự án mà sử dụng thế chấp vay vốn tại ngân hàng thương mại khác làm Ngân hàng phát triển mất quyền kiểm soát tài sản thể chấp (vi phạm cam kết tại khoản k, điểm 1 Điều 14 tại Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 về việc ban hành quy chế cho Doanh Nghiệp vay vốn của Ngân hàng thương mại “Có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ tại hợp đồng bảo lãnh vay vốn hoặc chứng thư bảo lãnh”. Kể từ ngày có văn bản từ chối đầu tiên, ngày 30/5/2017, các bên chỉ trao đổi bằng văn bản, không tìm được giải pháp giải quyết. Nội dung các văn bản này không có nội dung Ngân hàng Phát triển phủ nhận việc từ chối nghĩa vụ bảo lãnh. Và trên thực tế, Công ty Địa Cầu X vẫn không khắc phục vi phạm nghĩa vụ của người được bảo lãnh cũng như phía Ngân hàng Đại D không cung cấp được hồ sơ, chứng cứ rõ ràng cho khoản lãi phát sinh từ khoản nợ gốc 910.000.000 đồng hạng mục ô tô tải cẩu. Việc Tòa cấp sơ thẩm chấp nhận việc áp dụng thời hiệu để xác định hết thời hiệu khởi kiện tranh chấp chứng thư bảo lãnh cũng như áp dụng quyết định 14 để xác định phía Công ty Địa Cầu X vi phạm nghĩa vụ (mà không áp dụng Quyết định 60) là có căn cứ.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Ngân hàng Đại D, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới.
Do kháng cáo không được chấp nhận nên ngân hàng Đại D phải chịu án phí phúc thẩm kinh doanh thương mại theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng TMCP MTV Đại D, giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2022/KDTM-ST ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới.
2.Về án phí Kinh doanh thương mại phúc thẩm: Ngân hàng TMCP MTV Đại D phải chịu 2.000.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm tại biên lai số 0001099 ngày 10/2/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới.
3. Các quyết định khác không có kháng cáo, không bị kháng nghĩ có hiệu lực pháp luật ngay khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật thi hành.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 05/2022/KDTM-PT
Số hiệu: | 05/2022/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 07/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về