Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 01/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 01/2023/DS-ST NGÀY 06/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 06/12/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 26/2023/TLST- DS ngày 06 tháng 4 năm 2023 về việc "Tranh chấp hợp đồng tín dụng" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2023/QĐXXST – DS, ngày 06/10/2023; theo quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2023/QĐST-DS ngày 06/11/2023; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP B.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Doãn S – Chức vụ: Tổng giám đốc;

Địa chỉ: Số 210 Trần Quang Khải, phường Tràng Tiền, quận H, thành phố H.

- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Huy H – Chức vụ: Gm Đốc chi nhánh Điện Biên (Theo quyết định ủy quyền tham gia tố tụng số 6650/2017/QĐ-TGĐ, ngày 20/6/2017).

- Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Huy H: Ông Nguyễn T K - Chức vụ: Chuyên viên tổ hỗ trợ hoạt động - Ngân hàng TMCP B – Chi nhánh Điện Biên; “có mặt”.

Địa chỉ: Đội 24, xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

2. Bị đơn: Ông Ngô Văn G, sinh năm 1974; “vắng mặt” Địa chỉ: Đội 14, xã T C, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12/01/2023 và trong quá trình tố tụng tại Tòa án nhân dân huyện Đ B nguyên đơn trình bày:

Ngày 11/7/2019, ông Ngô Văn G đã ký hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2019226 vay số tiền 100.000.000 đồng và ngày 21/9/2020 ký hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2020246 vay số tiền 150.000.000 đồng với ngân hàng TMCP B – Chi nhánh Điện Biên. Mục đích vay mua sắm vật dụng gia đình.

- Do không trả được gốc, lãi đến hạn nên khoản vay của ông G đã bị chuyển sang nợ quá hạn từ ngày 12/7/2021 và dự kiến sẽ không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ các kỳ tiếp theo trong tương lai. Từ thời điểm đó đến nay Ngân hàng đã nhiều lần làm việc với ông G yêu cầu thực hiện các nghĩa vụ trả nợ nhưng khách hàng không thực hiện trả nợ.

- Ngân hàng đã làm việc với ông G để trao đổi và yêu cầu đưa ra phương án để thực hiện nghĩa vụ trả nợ lãi hàng tháng hoặc tất toán khoản vay. Tuy nhiên, các phương án đều không khả thi.

- Theo hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2019226 ngày 11/7/2019 và hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2020246 ngày 21/9/2020, ông G đã vi phạm vào Điều 7. Tại Điều 7 – Chấm dứt cho vay và thu hồi vốn vay trước hạn quy định Ngân hàng được quyền chấm dứt việc cho vay và/hoặc thu hồi trước hạn một phần hoặc toàn bộ vốn vay của bên vay khi bên vay không có khả năng trả nợ.

Căn cứ vào các nội dung trên, ngân hàng TMCP B – Chi nhánh Điện Biên kính đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên giải quyết:

- Buộc ông Ngô Văn G phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ ngay cho ngân hàng TMCP B – Chi nhánh Điện Biên theo hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2019226 ngày 11/7/2019 và hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2020246 ngày 21/9/2020.

- Căn cứ thực trạng khoản nợ và tình hình trả nợ của ông G với ngân hàng đang quá hạn với tổng số tiền tạm tính đến ngày 20/9/2022 là: 231.452.775đ (Hai trăm ba mươi mốt triệu bốn trăm năm mươi hai nghìn bảy trăm bảy mươi lăm đồng). Trong đó:

- Theo hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2019226 ngày 11/7/2019 là:

+ Tổng nợ gốc: 62.499.943đ;

+ Tổng lãi phạt gốc quá hạn: 4.551.889đ;

+ Tổng lãi đến hạn: 0đ;

+ Tổng lãi quá hạn: 6.714.244đ;

+ Tổng lãi phạt quá hạn: 461.276đ.

+ Tổng tiền: 74.227.352đ.

-Theo hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2020246 ngày 21/9/2020 là:

+ Tổng nợ gốc: 135.000.000đ;

+ Tổng lãi phạt gốc quá hạn: 0đ;

+ Tổng lãi đến hạn: 0đ;

+ Tổng lãi quá hạn: 17.023.400đ;

+ Tổng lãi phạt quá hạn: 1.090.380đ.

+ Tổng tiền: 157.225.423đ.

Tính đến ngày 06/12/2023 là 275.605.650đ (Hai trăm bảy mươi lăm triệu sáu trăm linh năm nghìn sáu trăm năm mươi đồng). Trong đó:

+ Tổng nợ gốc: 197.499.858đ;

+ Tổng lãi chậm trả gốc: 34.458.758đ;

+ Lãi quá hạn: 37.735.547đ;

+ Tổng lãi chậm trả lãi: 5.351.487đ.

+ Tổng lãi trong hạn: 560.000đ.

+ Tổng quá hạn: 275.045.650đ;

+ Tổng tiền: 275.605.650đ - Yêu cầu ông G phải thanh toán toàn bộ khoản vay tại Ngân hàng tính đến ngày 06/12/2023 là 275.605.650đ (Hai trăm bảy mươi lăm triệu sáu trăm linh năm nghìn sáu trăm năm mươi đồng).

Trong thời gian chưa thanh toán nợ yêu cầu ông G tiếp tục trả toàn bộ lãi phát sinh (Lãi trong hạn và lãi quá hạn) theo quy định của ngân hàng và của pháp luật cho đến khi tất toán khoản vay tính từ ngày 06/12/203, cụ thể:

- Lãi suất cho vay trong hạn với hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2019226 ngày 11/7/2019 bằng 12,6%/năm, hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2020246 ngày 21/9/2020 bằng 11,6%/năm.

+ Lãi suất nợ gốc quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn, tại thời điểm chuyển nợ quá hạn.

+ Lãi suất chậm trả bằng 10%/năm.

- Trong trường hợp ông G không trả được tiền vay cho Ngân hàng đề nghị Tòa án thanh lý tài sản thế chấp của ông G theo quy định của pháp luật.

Đối với bị đơn: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, đã gửi thông báo thụ lý vụ án cho các đương sự, nhưng Ngô Văn G đã chuyển đi nơi khác và không cho Tòa án biết địa chỉ nơi ở mới. Sau đó Tòa án đã tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật như: Thông báo cho các đương sự đến Tòa án để viết bản tự khai, cung cấp tài liệu, chứng cứ, yêu cầu tại Tòa án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Những thủ tục thông báo này Tòa án đã gửi bảo đảm qua đường bưu điện hoặc niêm yết theo đúng quy định của pháp luật. Nhưng bị đơn không thực hiện và cũng không có ý kiến gì. Do vậy, Tòa án đã không tiến hành hòa giải được.

Ngày 06/11/2023 Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử, nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử đã ra quyết định hoãn phiên tòa.

Tại phiên tòa hôm nay bị đơn vắng mặt không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

Căn cứ nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo và địa chỉ của bị đơn: Tòa án xác định đây là vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng thuộc thẩm giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ B theo Khoản 3 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố Tụng dân sự.

[2]. Về pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án: Hợp đồng tín dụng của ông G vay theo hình thức vay phục vụ nhu cầu đời sống có thế chấp tài sản, nên Tòa án sẽ căn cứ vào các quy định Bộ Luật Dân sự 2015; Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi bổ sung năm 2017 để giải quyết vụ án.

[3]. Về việc xác định tư cách người tham gia tố tụng:

3.1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Doãn S – Chức vụ: Tổng giám đốc; Địa chỉ: Số 210 Trần Quang Khải, phường Tràng Tiền, quận H, thành phố H.

- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hữu Hòa – Chức vụ: Gm Đốc chi nhánh Điện Biên (Theo quyết định ủy quyền tham gia tố tụng số 6650/2017/QĐ- TGĐ, ngày 20/6/2017).

- Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Huy H: Ông Nguyễn T K - Chức vụ: Chuyên viên tổ hỗ trợ hoạt động - Ngân hàng TMCP B – Chi nhánh Điện Biên.

Địa chỉ: Đội 24, xã N H, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

3.2. Bị đơn: Ông Ngô Văn G, sinh năm 1974;

Địa chỉ: Đội 14, xã T C, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

[4]. Về tính pháp lý của hợp đồng tín dụng:

Do ông Ngô Văn G đã lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CQ 641057; số vào sổ GCN: CS 01299, do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Điện Biên cấp ngày 03/6/2019 cho ông Ngô Văn G ở đội 14, xã T C, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên để thế chấp cho Ngân hàng vay số tiền 250.000.000đ, bằng các hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2019226 ngày 11/7/2019 và hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2020246 ngày 21/9/2020 là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc. Hợp đồng được lập theo mẫu có chữ ký của giám đốc Ngân hàng, chữ ký của ông G, đã đảm bảo về hình thức và nội dung, không trái pháp luật, đạo đức. Bị đơn đã được vay vốn và được giải ngân số tiền vay 250.000.000 đồng, theo đúng mục đích mua sắm đồ gia dụng. Xét thấy việc giao kết hợp đồng giữa Ngân hàng TMCP B - Chi nhánh Điện Biên với ông G là hợp pháp và đúng theo quy định tại các Điều 116, 117 và các Điều 463, 465; 466, 467; 468 BLDS.

[5]. Xét về nội dung tranh chấp:

Ngày 11/7/2019, ông Ngô Văn G đã ký hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2019226 vay số tiền 100.000.000 đồng và ngày 21/9/2020 ký hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2020246 vay số tiền 150.000.000 đồng với ngân hàng TMCP B – Chi nhánh Điện Biên. Mục đích vay mua sắm vật dụng gia đình. Lãi suất cho vay được điều chỉnh định kỳ theo quy định của ngân hàng.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên vay đã vi phạm hợp đồng tại Điều 7. Do vậy, Ngân hàng đã căn cứ theo quy định tại Điều 7 – Chấm dứt cho vay và thu hồi vốn vay trước hạn quy định Ngân hàng được quyền chấm dứt việc cho vay và/hoặc thu hồi trước hạn một phần hoặc toàn bộ vốn vay của bên vay khi bên vay không có khả năng trả nợ.

Khoản vay của ông G đã quá hạn kể từ ngày 12/7/2021, tuy nhiên ông G không thực hiện đúng cam kết trả nợ dù được Ngân hàng thông báo nhiều lần. Tính đến ngày 06/12/2023 ông G còn nợ Ngân hàng số tiền là 275.605.650đ (Hai trăm bảy mươi lăm triệu sáu trăm linh năm nghìn sáu trăm năm mươi đồng), gồm: Nợ gốc và các loại lãi.

Như vậy, bị đơn đã được vay vốn và được giải ngân theo đúng đối tượng, mức lãi suất theo đúng quy định của pháp luật. Xét thấy việc thỏa thuận giao kết hợp đồng vay vốn giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc, đúng các quy định của pháp luật nên hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2019226 vay số tiền 100.000.000 đồng và ngày 21/9/2020 ký hợp đồng tín dụng số HĐTD41A2020246 vay số tiền 150.000.000 đồng với ngân hàng TMCP B – Chi nhánh Điện Biên với ông G là hợp pháp. Trong quá trình giải quyết vụ án Ngân hàng đã cung cấp được cho Tòa án các tài liệu chứng minh việc vay, trả tiền gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn số dư nợ gốc của bị đơn để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Từ những căn cứ trên xét thấy bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ và phù hợp với quy định tại các điều 91, 94, 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 463, 465; 466, 467; 468 BLDS năm 2015. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả số tiền nợ gốc và các loại lãi là 275.605.650đ (Hai trăm bảy mươi lăm triệu sáu trăm linh năm nghìn sáu trăm năm mươi đồng).

Trong trường hợp ông G không trả được tiền vay cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan Thi hành án Dân sự thanh lý tài sản thế chấp của ông G đã dùng để thế chấp theo quy định của pháp luật.

[6]. Về án phí Dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147/BLTTDS, Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị đơn ông G phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 275.605.650đ x 5% = 13.780.283đ ( Mười ba triệu bảy trăm tám mươi nghìn hai trăm tám mươi ba đồng). Ngân hàng TMCP B - Chi nhánh Điện Biên không phải chịu án phí DSST, nên được trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.775.000đ (Năm triệu bảy trăm bảy mươi lăm nghìn đồng), theo biên lai số: 0005179 ngày 06/4/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

Đối với bị đơn: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, đã gửi thông báo thụ lý vụ án cho các đương sự, nhưng Ngô Văn G đã chuyển đi nơi khác và không cho Tòa án biết địa chỉ nơi ở mới. Sau đó Tòa án đã tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật như: Thông báo cho các đương sự đến Tòa án để viết bản tự khai, cung cấp tài liệu, chứng cứ, yêu cầu tại Tòa án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Những thủ tục thông báo này Tòa án đã gửi bảo đảm qua đường bưu điện hoặc niêm yết theo đúng quy định của pháp luật. Nhưng bị đơn không thực hiện theo các yêu cầu của Tòa án. Điều này chứng tỏ bị đơn vắng mặt tự tước đi quyền, nghĩa vụ của mình trong thời gian giải quyết vụ án. Hơn thế nữa việc bị đơn không đến Tòa án theo giấy thông báo, triệu tập của Tòa án còn thể hiện việc không tôn trọng Tòa án, không chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay, Tòa án đã gửi quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ cho các đương sự, nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 3 Điều 228/BLTTDS, Điểm b Khoản 2 Điều 227/BLTTDS, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 3 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 1 Điều 147; Khoản 3 Điều 228, Điểm b Khoản 2 Điều 227; Điều 235; 264, 267 và các Điều 271, Điều 273/BLTTDS;

- Căn cứ các Điều 351, 352, 357, 463, 466, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ Khoản 2 Điều 91, Khoản 3 Điều 94 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi bổ sung năm 2017. Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án .

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn ông Ngô Văn G phải trả số tiền nợ Ngân hàng TMCP B - Chi nhánh Điện Biên tính đến ngày 06/12/2023 số tiền nợ là 275.605.650đ (Hai trăm bảy mươi lăm triệu sáu trăm linh năm nghìn sáu trăm năm mươi đồng). Trong đó:

+ Tổng nợ gốc: 197.499.858đ;

+ Tổng lãi chậm trả gốc: 34.458.758đ;

+ Lãi quá hạn: 37.735.547đ;

+ Tổng lãi chậm trả lãi: 5.351.487đ.

+ Tổng lãi trong hạn: 560.000đ.

+ Tổng quá hạn: 275.045.650đ;

+ Tổng tiền: 275.605.650đ Tổng nợ cả gốc và lãi là: 275.605.650đ (Hai trăm bảy mươi lăm triệu sáu trăm linh năm nghìn sáu trăm năm mươi đồng).

Trong trường hợp ông G không trả được tiền vay cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan Thi hành án Dân sự thanh lý tài sản thế chấp của ông G đã dùng để thế chấp theo quy định của pháp luật.

2. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày tuyên án 06/12/2023) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

3. Về án phí Dân sự sơ thẩm: Bị đơn ông G phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 13.780.283đ ( Mười ba triệu bảy trăm tám mươi nghìn hai trăm tám mươi ba đồng). Ngân hàng TMCP B - Chi nhánh Điện Biên không phải chịu án phí DSST, nên được trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.775.000đ (Năm triệu bảy trăm bảy mươi lăm nghìn đồng), theo biên lai số: 0005179 ngày 06/4/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 271, Khoản 1 Điều 273/BLTTDS;

Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 01/2023/DS-ST

Số hiệu:01/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về