TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 257/2019/KDTM-PT NGÀY 03/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THI CÔNG
Trong các ngày 22 tháng 3 năm 2019 và ngày 03 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh số 26 Lê Thánh Tôn, phường Bến Nghé, Quận 1,Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 134/2018/KDTM-PT ngày 13/12/2018 về việc tranh chấp hợp đồng thi công.
Do bản án kinh doanh sơ thẩm số 14/2018/KDTM-ST ngày 18/6/2018 của Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 548/2019/QĐ-PT ngày 18 tháng 02 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 865/2019/QĐ-PT ngày 05 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty TNHH G V Địa chỉ: đường F, KCN trong khu KCX LII, quận TD, Thành phố H.
Đại diện theo ủy quyền: Bà Bùi Thị N – sinh năm 1981 (Giấy ủy ngày 12/11/2018) – Có mặt
2. Bị đơn: Công ty TNHH KN I V Địa chỉ: phường M1, quận N, Thành phố HN.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Văn V – sinh năm 1985 (Giấy ủy quyền số 17/2019/UQ-KNINTERVINA ngày 04/3/2019) – Có mặt
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Cổ phần Dịch vụ Đòi nợ S Địa chỉ: đường TS, Phường F, quận TB, Thành phố H Đại diện theo ủy quyền: Bà Hà Thị T - sinh năm 1985 (Giấy ủy quyền ngày 04/3/2019) – Phiên tòa ngày 22/3/2019 có mặt, phiên tòa ngày 03/4/2019 có đơn xin xét xử vắng mặt
4. Người kháng cáo: Công ty TNHH KN I V
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm thì sự việc đươc tóm tắt như sau:
Tại đơn khởi kiện ngày 16/3/2017, bản tự khai ngày 28/4/2017, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 14/9/2015, Công ty TNHH G V (viết tắt là Công ty G V) và Công ty TNHH KN I V (viết tắt là Công ty I V) có ký kết hai hợp đồng kinh tế số 040915/HĐKT/KN/GN ngày 14/9/2015, nội dung: Công ty G V có trách nhiệm thi công và lắp đặt hạng mục cửa và kim loại cho Công ty I V tại dự án “Samsung electronics CE Complex” tại địa chỉ Lô 1-11, đường D2, Khu Công nghệ cao Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, giá trị của hợp đồng là 4.900.000.000 đồng, chưa bao gồm VAT; và Hợp đồng kinh tế số PS 040915/HĐKT/KN/GN ngày 14/9/2015, nội dung: Công ty G V có trách nhiệm thi công và lắp đặt hạng mục cửa và kim loại cho Công ty I V tại dự án “Samsung electronics CE Complex” tại địa chỉ Lô 1-11, đường D2, Khu Công nghệ cao Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, giá trị của hợp đồng là 1.084.600.000 đồng, đã bao gồm VAT.
Ngày 07/4/2016, Công ty G V và Công ty I V ký kết Hợp đồng số 240915/HĐKT/KN/GN là tổng giá trị thi công của hai Hợp đồng số 040915/HĐKT/KN/GN ngày 14/9/2015 và Hợp đồng kinh tế số PS 040915/HĐKT/KN/GN ngày 14/9/2015 có giá trị là 8.526.631.997 đồng chưa bao gồm VAT. Sau khi ký kết Hợp đồng, Công ty G V đã thực hiện việc cung cấp, lắp đặt cửa và kim loại theo yêu cầu của Công ty I V. Ngày 19/7/2016, Công ty I V đã có biên bản xác nhận hoàn thành công trình. Tuy nhiên đến nay Công ty I V chỉ mới thanh toán được 2.000.000.000 đồng, còn nợ lại 6.083.915.197 đồng. Ngày 06/9/2016, Công ty G V có ký hợp đồng ủy quyền với Công ty CP Dịch vụ đòi nợ S (viết tắt là Công ty S) để đòi số tiền 6.083.915.197 đồng đối với Công ty I V, tuy nhiên sau đó hai bên đã ký biên bản thanh lý hợp đồng.
Tại biên bản làm việc ngày 15/8/2017, đại diện Công ty Công ty G V đồng ý giảm số tiền xuống còn 5.800.000.000 đồng. Nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán 5.800.000.000 đồng và tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định Tại bản tự khai ngày 15/8/2017 và Biên bản hòa giải ngày 15/9/2017, đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày:
Công ty I V là nhà thầu của SamSung thực hiện dự án “Samsung electronics CE Complex” tại địa chỉ Lô 1-11, đường D2, Khu Công nghệ cao Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. Việc nguyên đơn trình bày về Hợp đồng số 040915/HĐKT/KN/GN ngày 14/9/2015 và biên bản xác nhận hoàn thành công trình, bị đơn thừa nhận là đúng. Bị đơn cũng đã trả cho nguyên đơn 2.000.000.000 đồng. Nguyên đơn có ủy quyền cho Công ty S về việc đòi nợ thuê, bị đơn đã trả cho Công ty S 500.000.000 đồng. Do khó khăn nên yêu cầu nguyên đơn giảm giá xuống 3.000.000.000 đồng và cấn trừ cho bị đơn 500.000.000 đồng mà bị đơn đã trả cho Công ty S.
Tại Bản tự khai ngày 03/11/2017, đại diện theo ủy quyền của Công ty CP Dịch vụ Đòi nợ S trình bày: Ngày 06/9/2016, Công ty G V có ký hợp đồng ủy quyền với Công ty S để đòi số tiền 6.083.915.197 đồng đối với Công ty I V. Công ty S chưa thu được bất kỳ khoản tiền nào từ Công ty I V. Ngày 08/3/2017, Công ty G V đã yêu cầu chấm dứt Hợp đồng với Công ty S. Từ khi thanh lý hợp đồng đến nay, Công ty S không liên hệ và cũng không thu bất kỳ khoản tiền nào của Công ty I V.
Tại bản án số 14/2018/KDTM-ST ngày 18/6/2018 của Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Chấp thuận một phần yêu cầu của nguyên đơn. Buộc Công ty TNHH KN I V có nghĩa vụ trả cho Công ty TNHH G V số tiền 6.506.300.000 đồng, trong đó số tiền 5.800.000.000 đồng là tiền chưa thanh toán theo Hợp đồng thay đổi giá trị thi công số Hợp đồng số 24915/HĐKT/KN/Công ty G V ngày 17/4/2016 và tiền lãi 706.300.000 đồng tính từ ngày 19/7/2016 đến ngày tuyên án sơ thẩm.
Trong trường hợp bên có nghĩa vụ phải thi hành chậm trả tiền thì bên đó còn phải chịu thêm khoản tiền bằng mức trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại Khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015; nếu không có thỏa thuận thì được thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 06/8/2018, Công ty I V kháng cáo toàn bộ bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm 14/2018/KDTM-ST ngày 18/6/2018 của Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 30/10/2018 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Quyết định chấp nhận việc kháng cáo quá hạn số 73/2018 QĐ-PT của Công ty I V.
Tại phiên Toà phúc thẩm:
Đại diện Công ty I V trình bày:
Thứ nhất, đề nghị Công ty G V xác nhận lại số tiền Công ty I V đã thanh toán là 3.295.380.000 đồng.
Thứ hai, Công ty I V và Công ty G V có ký Hợp đồng thay đổi thi công số 240915/HDKT/KN/GN ngày 07/4/2016 là 8.526.631.997 đồng (chưa gồm thuế giá trị gia tăng), tuy nhiên không đồng ý Biên bản xác nhận hoàn thành thi công ngày 19/7/2016 để tính giá trị thi công, vì thực tế giá cả thấp hơn hợp đồng nên Công ty I V chỉ đồng ý trả cho Công ty G V số tiền 5.3000.000.000 đồng và tiền lãi chậm trả theo quy định.
Đại diện Công ty G V trình bày: tại đơn khởi kiện, Công ty G V yêu cầu Công ty I V thanh toán số tiền nợ gốc là 6.083.915.197 đồng và tiền lãi chậm thanh toán theo mức lãi suất cơ bản, cụ thể số tiền theo Hợp đồng thay đổi giá trị thi công số 240915/HDKT/KN/GN ngày 07/4/2016 là 8.526.631.997 + 10% thuế GTGT = 9.379.295.197 đồng – 3.295.380.000 đồng = 6.083.915.197 đồng, tuy nhiên tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả 5.800.000.000 đồng và khoản tiền lãi chậm thanh toán theo mức lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước quy định. Theo bản án sơ thẩm buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền nợ gốc 5.800.000.000 đồng và tiền lãi chậm thanh toán là 706.300.000 đồng, tổng cộng: 6.506.300.000 đồng.
Đại diện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Không có ý kiến, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu – đề nghị:
Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, thẩm phán thực hiện đúng theo quy định của pháp luật và tại phiên tòa hội đồng xét xử thực hiện đúng theo trình tự Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Tại phiên tòa các đương sự chấp hành đúng theo quy định pháp luật Về nội dung: Công ty I V kháng cáo nhưng tại phiên tòa phúc thẩm, Công ty I V không đưa ra được những chứng cứ vì cho việc kháng cáo của mình nên đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Ngày 06/8/2018 Công ty TNHH I V kháng cáo quá hạn; Ngày 30/10/2018 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Quyết định chấp nhận kháng cáo quá hạn số 73/2018/QĐ-PT nên việc kháng cáo của Công ty I V là hợp lệ, được cấp phúc thẩm xem xét.
[2] Công ty TNHH G V ủy quyền cho bà Bùi Thị N; Công ty TNHH KN I V ủy quyền cho ông Phan Văn V; Công ty CP Dịch vụ đòi nợ S ủy quyền cho bà Hà Thị T, phù hợp với Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Về yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH KN I V [3] Căn cứ hợp đồng kinh tế số 040915/HĐKT/KN/GN ngày 14/9/2015, nội dung: Công ty G V có trách nhiệm thi công và lắp đặt hạng mục cửa và kim loại cho Công ty I V tại dự án “Samsung electronics CE Complex” tại địa chỉ Lô 1-11, đường D2, Khu Công nghệ cao Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, giá trị của hợp đồng là 4.900.000.000 đồng, chưa bao gồm VAT; và Hợp đồng kinh tế số PS 040915/HĐKT/KN/GN ngày 14/9/2015, nội dung: Công ty G V có trách nhiệm thi công và lắp đặt hạng mục cửa và kim loại cho Công ty I V tại dự án “Samsung electronics CE Complex” tại địa chỉ Lô 1-11, đường D2, Khu Công nghệ cao Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, giá trị của hợp đồng là 1.084.600.000 đồng, đã bao gồm VAT. Sau đó, hai bên ký kết Hợp đồng thay đổi giá trị thi công số 240915/HĐKT/KN/GN ngày 07/4/2016 là tổng giá trị thi công của hai Hợp đồng số 040915/HĐKT/KN/GN ngày 14/9/2015 và Hợp đồng kinh tế số PS 040915/HĐKT/KN ngày 14/9/2015 có giá trị là 8.526.631.997 đồng chưa bao gồm VAT và sự thừa nhận của Công ty G V và Công ty I V về việc ký kết và thực hiện các hợp đồng nêu trên thì có căn cứ xác định giữa Công ty TNHH G V và Công ty TNHH KN I V có xác lập giao dịch hợp đồng thi công.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Công ty G V và Công ty I V đều thừa nhận Hợp đồng thay đổi giá trị thi công số 240915/HDKT/KN/GN ngày 07/4/2016, giá trị hợp đồng sau khi thay đổi là 8.526.631.997 đồng (chưa bao gồm thuế GTGT), bị đơn đã thanh toán 3.295.380.000 đồng, còn nợ nguyên đơn số tiền là 6.083.915.197 đồng, tuy nhiên tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả số nợ gốc 5.800.000.000 đồng; ngược lại bị đơn cho rằng giá trị hợp đồng thay đổi như hai bên đã ký, nhưng thực tế giá trị hàng hóa thấp hơn nên bị đơn chỉ đồng ý thanh toán cho nguyên đơn số nợ gốc là 5.300.000.000 đồng. Hội đồng xét xử, xét thấy, đại diện bị đơn cho rằng giá trị Hợp đồng thay đổi giá trị thi công số 240915/HDKT/KN/GN ngày 07/4/2016 là 8.526.631.997 đồng, thực tế giá trị hàng hóa thấp hơn hợp đồng nhưng đại diện Công ty I V không cung cấp được chứng cứ gì chứng minh cho việc kháng cáo của mình, cấp sơ thẩm căn cứ Hợp đồng thay đổi thi công số 240915/HĐKT/KN/GN ngày 07/4/2016 và Bản quyết toán khối lượng ngày 19/7/2016 giữa Công ty G V và Công ty I V, xác định số tiền thi công bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn (chưa bao gồm VAT) là 8.526.631.997 đồng. Nguyên đơn và bị đơn đều xác nhận bị đơn đã trả được 3.295.380.000 đồng, như vậy, bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền như sau: (8.526.631.997 đồng x 10%VAT) - 3.295.380.000 đồng = 6.083.915.197 đồng, tuy nhiên tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn thanh toán 5.800.000.000 đồng là có lợi cho bị đơn nên cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ.
[5] Về lãi suất: tại phiên tòa sơ thẩm cũng như phúc thẩm, đại diện Công ty G V vẫn giữ nguyên yêu cầu bị đơn trả tiền lãi chậm thanh toán của số tiền 5.800.000.000 đồng, theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định kể từ ngày 19/7/2016 đến ngày xét xử sơ thẩm; ngược lại bị đơn chỉ đồng ý trả tiền lãi chậm thanh toán của số tiền 5.300.000.000 đồng theo mức lãi suất nhà nước quy định. Như Hội đồng xét xử đã nhận định phần trên, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc là 5.800.000.000 đồng, nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả tiền lãi chậm thanh toán của số tiền 5.800.000.000 đồng, theo mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước quy định là có cơ sở chấp nhận.
Từ ngày 19/7/2016 đến ngày 18/6/2018 là 23 tháng; Mức lãi suất cơ bản của ngân hàng là 9%/năm: 12 tháng = 0,75%/tháng.
Như vậy số tiền lãi được tính như sau:
5.800.000.000 đồng x 0,75% x 23tháng = 1.000.500.000 đồng Tuy nhiên cấp sơ thẩm chỉ tuyên phần lãi bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn là 706.300.000 đồng. Đối với số tiền lãi này, nguyên đơn không kháng cáo và có lợi cho bị đơn nên giữa nguyên phần lãi suất cấp sơ thẩm tuyên buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn.
[6] Như vậy, tổng số tiền Công ty I V phải thanh toán cho Công ty G V là 6.506.300.000 đồng, trong đó tiền gốc 5.800.000.000 và tiền lãi 706.300.000 đồng tính từ ngày 19/7/2016 đến ngày 18/6/2018.
[7] Từ nhận định trên, hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Công ty I V, giữ nguyên bản án sơ thẩm như ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
[8] Các nội dung khác đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên giữ nguyên án sơ thẩm.
[9] Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: không chấp nhận kháng cáo của Công ty I V nên phải chịu án phí 2.000.000 đồng; Công ty I V đã nộp đủ án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 148; Khoản 1 Điều 308; Điều 309 và 313 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015;
- Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi, bổi sung năm 2014);
- Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy bán thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH KN I V 2. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
3. Buộc Công ty TNHH KN I V có nghĩa vụ trả cho Công ty TNHH G V số tiền 6.506.300.000 (sáu tỷ năm trăm lẻ sáu triệu ba trăm ngàn) đồng, trong đó số tiền 5.800.000.000 (năm tỷ tám trăm triệu) đồng là tiền chưa thanh toán theo Hợp đồng thay đổi giá trị thi công số 240915/HĐKT/KN/GN ngày 07/4/2016 và tiền lãi 706.300.000 (bảy trăm lẻ sáu triệu ba trăm ngàn) đồng tính từ ngày 19/7/2016 đến ngày 18/6/2018.
Kể từ ngày Công ty TNHH G V có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Công ty TNHH KN I V chưa thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi trên số tiền chậm trả theo mức lãi suất được quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 Thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
4. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty TNHH KN I V chịu 114.506.300 (một trăm mười bốn triệu năm trăm lẻ sáu ngàn ba trăm) đồng.
Hoàn lại cho Công ty TNHH G V số tiền tạm ứng án phí 57.178.846 (năm mươi bảy triệu một trăm bảy mươi tám ngàn tám trăm bốn mươi sáu) đồng đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0002588 ngày 11/4/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty TNHH KN I V chịu 2.000.000 (hai triệu) đồng, được cấn trừ vào tiền tạm nộp án phí 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu số AA/2017/0039991 ngày 23/11/2018 và 1.700.000 (một triệu bảy trăm ngàn) đồng theo biên lai thu số AA/2018/0009030 ngày 07/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty TNHH KN I V đã nộp đủ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo các qui định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng thi công số 257/2019/KDTM-PT
Số hiệu: | 257/2019/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 03/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về