Bản án về tranh chấp hợp đồng thầu phụ số 922/2023/KDTM-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 922/2023/KDTM-PT NGÀY 07/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THẦU PHỤ

Ngày 07 tháng 9 năm 2023 tại phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 76/2023/TLPT-KDTM ngày 03 tháng 7 năm 2023 về: “Tranh chấp hợp đồng thầu phụ”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 35/2023/KDTM-ST ngày 13 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2898/2023/QĐ-PT ngày 18 tháng 7 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 10829/2023/QĐ-PT ngày 15 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH B - Đồng Tâm Địa chỉ: Khu B, khu công nghiệp T, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lâm Phương N, sinh năm 1996; địa chỉ liên hệ: B N, Phường A, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 28/02/2022) - có đơn xin vắng mặt.

2. Bị đơn: Công ty Cổ phần X Địa chỉ: Tòa nhà T, tầng 3, số B đường Đ, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1978; địa chỉ: Số B đường Đ, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền số 022/2023/GUQ-LB ngày 06/9/2023) - có mặt.

3. Người kháng cáo: Công ty Cổ phần X là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tóm tt nội dung vụ án và quyết định của bản án sơ thẩm như sau:

* Nguyên đơn Công ty TNHH B - Đ trình bày:

Công ty TNHH B - Đ (sau đây gọi tắt là Công ty Đ) và Công ty cổ phần X (sau đây gọi tắt là Công ty X) đã ký kết 02 hợp đồng: Hợp đồng thầu phụ số 616.19.COC/LB03-BDD ngày 11/7/2019, giá trị 1.168.643.300 đồng và Phụ lục Hợp đồng số 02/616.19.COC/LB03-BDD ngày 05/8/2019 (sau đây gọi tắt là Hợp đồng 616); Hợp đồng thầu phụ số 864.19.COC/LB03-BDD ngày 26/7/2019, giá trị 6.750.744.000 đồng và Phụ lục Hợp đồng số 01, 02 về việc Bổ sung phạm vi công việc, đơn giá hợp đồng (sau đây gọi tắt là Hợp đồng 864). Giá trị hợp đồng là tạm tính, khối lượng thanh toán và quyết toán là khối lượng giao nhận thực tế tại công trình.

Để thực hiện các hợp đồng nêu trên, phía Công ty Đ đã giao hàng đầy đủ theo yêu cầu của Công ty X và hai bên đã ký xác nhận khối lượng công việc hoàn thành theo Bảng xác định giá trị công việc hoàn thành của từng hợp đồng. Theo đó, việc thực hiện hợp đồng trên thực tế như sau:

- Hợp đồng 616: Căn cứ Bảng xác nhận khối lượng cung cấp cọc PHC D500A ngày 30/8/2019, Bảng xác định giá trị công việc hoàn thành Đợt 2_Quyết toán ngày 25/9/2019, Công ty Đ đã xuất 03 hóa đơn: số 0001514 ngày 05/9/2019 số tiền 94.528.500 đồng, số 0001586 ngày 27/9/2019 số tiền 1.168.643.300 đồng và số 0001657 ngày 08/10/2019 số tiền -7.760.775 đồng (trừ 7.760.775 đồng). Giá trị thực hiện trên thực tế 1.255.411.025 đồng, số tiền đã thanh toán là 1.055.410.778 đồng theo các Giấy báo có: Ngày 13/8/2019 là 212.480.600 đồng, ngày 17/4/2020 là 100.000.000 đồng, ngày 17/4/2020 là 100.000.000 đồng, ngày 08/6/2020 là 94.528.500 đồng và ngày 08/6/2020 là 94.528.500 đồng. Chưa thanh toán 200.000.247 đồng.

- Hợp đồng 864: Căn cứ Bảng xác định giá trị công việc hoàn thành Đợt 2_Quyết toán ngày 28/12/2019, Công ty Đ đã xuất 02 hóa đơn: số 0002071 ngày 30/12/2019 số tiền 967.461.000 đồng và số 0002072 ngày 30/12/2019 số tiền -49.658.400 đồng (trừ 49.658.400 đồng). Giá trị thực hiện trên thực tế 1.149.208.192 đồng, số tiền đã thanh toán là 481.405.592 đồng theo các Giấy báo có: Ngày 30/10/2019 là 231.405.592 đồng, ngày 04/9/2020 là 50.000.000 đồng và ngày 17/7/2020 là 100.000.000 đồng. Chưa thanh toán 667.802.600 đồng.

- Tổng cộng hai hợp đồng Công ty Đ đã thực hiện là 2.404.619.217 đồng, bị đơn đã thanh toán 1.536.816.370 đong, còn nợ 867.802.847 đồng.

Ngày 06/4/2021, hai bên ký Biên bản đối chiếu công nợ, Công ty X xác nhận còn nợ Công ty Đ số tiền 867.802.847 đồng.

Ngày 29/01/2022 Công ty X thanh toán thêm cho Công ty Đ 50.000.000 đồng (thanh toán cho Hợp đồng số 616 theo Giấy báo có ngày 29/01/2022). Tổng cộng số tiền mà Công ty X đã thanh toán tính đến ngày 29/01/2022 là 1.586.816.370 đồng. Số tiền Công ty X còn nợ chưa thanh toán cho Công ty Đ là 817.802.847 đồng.

Công ty Đ đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình nhưng Công ty X vẫn chưa hoàn thành nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng cho Công ty Đ. Công ty Đ đã nhiều lần liên hệ đốc thúc thu hồi nợ nhưng Công ty X vẫn chưa thanh toán cho Công ty Đ số tiền nợ nêu trên. Nhận thấy hành vi vi phạm Hợp đồng, vi phạm pháp luật của Công ty X đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty Đ. Do đó, Công ty Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty X phải trả ngay và trả một lần số tiền nợ gốc 817.802.847 đồng và số tiền lãi phát sinh tính trên số tiền chậm thanh toán kể từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán, tạm tính đến ngày khởi kiện là 131.985.430 đồng, tổng cộng: 949.788.277 đồng.

Về thời hạn thanh toán và cách tính lãi:

- Hợp đồng 616: Theo quy định tại điểm b khoản 7.2 Điều 7 Hợp đồng, Công ty X có nghĩa vụ thanh toán giá trị quyết toán trong vòng 45 ngày sau khi hai bên ký biên bản hoàn thành công việc và nhận đầy đủ hồ sơ quyết toán. Trong đó: Ngày nghiệm thu quyết toán là ngày 25/9/2019, ngày xuất hóa đơn cuối cùng là ngày 08/10/2019. Như vậy, ngày đến hạn thanh toán là ngày 22/11/2019, từ ngày 23/11/2019 khoản nợ quá hạn thanh toán. Lãi suất theo khoản 10.1 Điều 10 Hợp đồng.

- Hợp đồng 864: Theo quy định tại điểm c khoản 7.2 Điều 7 Hợp đồng, Công ty X có nghĩa vụ thanh toán giá trị quyết toán trong vòng 45 ngày sau khi hai bên ký biên bản hoàn thành công việc và nhận đầy đủ hồ sơ quyết toán. Trong đó: Ngày nghiệm thu quyết toán là 28/12/2019, ngày xuất hóa đơn cuối cùng là ngày 30/12/2019. Như vậy, ngày đến hạn thanh toán là ngày 13/02/2020, từ ngày 14/2/2020 khoản nợ quá hạn thanh toán. Lãi suất theo khoản 10.1 Điều 10 Hợp đồng.

* Bị đơn Công ty Cổ phần X trình bày:

Công ty X xác nhận việc ký kết 02 hợp đồng thầu phụ và Biên bản đối chiếu công nợ ngày 06/4/2021 với số tiền 867.802.847 đồng. Ngày 29/1/2022, Công ty X đã thanh toán tiếp tục 50.000.000 đồng, còn nợ Công ty Đ số tiền nợ gốc 817.802.847 đồng. Bị đơn đồng ý trả nợ gốc 817.802.847 đồng.

Về tiền lãi chậm thanh toán, bị đơn đồng ý lãi suất chậm trả là 7,8%/năm. Đối với số tiền lãi chậm thanh toán bị đơn chưa xác định được thời hạn tính lãi nên bị đơn tạm đồng ý trả 188.443.991 đồng tiền lãi tính đến ngày 11/01/2023. Do tình hình tài chính khó khăn nên đề nghị được thanh toán chậm nhất ngày 30/9/2023, giảm lãi khi thanh toán xong nợ gốc đúng hạn vừa nêu.

Tại Biên bản hòa giải ngày 11/01/2023:

- Những vấn đề các bên đã thỏa thuận được: Công ty X có nghĩa vụ trả cho Công ty Đ số tiền nợ gốc 817.802.847 đồng; lãi suất chậm thanh toán là 7,8%/năm.

- Những vấn đề không thỏa thuận được: Thời điểm tính lãi, số tiền lãi và thời hạn thanh toán.

* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 35/2023/KDTM-ST ngày 13 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH B - Đ.

Buộc Công ty Cổ phần X nghĩa vụ thanh toán cho Công ty TNHH B - Đ số tiền nợ gốc là 817.802.847 đồng và tiền lãi chậm thanh toán tính là 204.512.219 đồng, tổng cộng 1.022.315.066 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận là 7,8%/năm.

Ngoài ra bản án sơ thẩm cũng xác định trách nhiệm chịu án phí, quyền và thời hạn kháng cáo của các đương sự.

Ngày 19/5/2023, bị đơn Công ty X đã nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm do bị đơn đã có văn bản số 11/2023.COR/LB0-AHD ngày 10/4/2023 gửi Tòa án cấp sơ thẩm để xin hoãn phiên tòa ngày 13/4/2023, tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm vẫn xử vắng mặt nên bị đơn không thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn Công ty X giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.

Nguyên đơn Công ty Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, đồng thời giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đồng ý với bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa, Hội đồng xét xử phúc thẩm và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo được nộp trong thời hạn quy định nên hợp lệ.

- Về nội dung kháng cáo: Xét thấy kháng cáo của bị đơn là không có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Xét kháng cáo của bị đơn Công ty X kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm do bị đơn đã có Văn bản số 11/2023.COR/LB0- AHD ngày 10/4/2023 gửi Tòa án cấp sơ thẩm để xin hoãn phiên tòa ngày 13/4/2023, tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm vẫn xử vắng mặt nên bị đơn không thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1.1] Về hình thức của đơn kháng cáo: Xét thấy đơn kháng cáo của bị đơn trong thời hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận.

[1.2] Về nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

Bị đơn Công ty X đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa vào lúc 08 giờ 30 phút ngày 16/3/2023 nhưng bị đơn có đơn xin hoãn phiên tòa. Căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án cấp sơ thẩm đã hoãn phiên tòa là đúng quy định.

Tòa án cấp sơ thẩm mở lại phiên tòa vào lúc 08 giờ 30 phút ngày 13/4/2023, phía bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia tố tụng nhưng bị đơn lại có Văn bản số 11/2023.COR/TB-AHD ngày 10/4/2023 đề nghị hoãn phiên tòa với lý do: Người được ủy quyền là bà N1 bị bệnh không thể tham gia phiên tòa, nhân sự mới chưa kịp nắm bắt hồ sơ, chưa nhận được tài liệu, chứng cứ nguyên đơn giao nộp cho Tòa án.

Xét thấy, theo tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện: Nguyên đơn đã giao tài liệu chứng cứ cho phía bị đơn thể hiện qua Phiếu gửi bưu điện ngày 12/01/2023 và Biên bản giao nhận tài liệu, chứng cứ ngày 16/3/2023 theo địa chỉ trụ sở của bị đơn, đây cũng là địa chỉ liên lạc theo yêu cầu của người đại diện theo ủy quyền của bị đơn theo Đơn ngày 11/02/2023 (Bút lục 109). Bị đơn đã được Tòa án cho sao chụp đơn khởi kiện, biên bản đối chiếu công nợ, bảng tính lãi, bản tự khai của Công ty Đ vào ngày 09/12/2022 (Bút lục 32). Ngoài ra, các tài liệu, chứng từ nguyên đơn giao nộp cũng được công khai tại phiên họp ngày 11/01/2023. Như vậy, phía bị đơn đã được tiếp cận chứng cứ đầy đủ nên việc Công ty X có Văn bản số 11/2023.COR/LB-AHD ngày 10/4/2023 đề nghị hoãn phiên tòa với lý do người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là bà N1 bị bệnh không thể tham gia phiên tòa, nhân sự mới chưa kịp nắm bắt hồ sơ, chưa nhận được tài liệu, chứng cứ nguyên đơn giao nộp cho Tòa án nhưng bị đơn không cung cấp bệnh án, chỉ định điều trị của cơ quan y tế có thẩm quyền và ông H là người đại diện theo pháp luật của bị đơn biết sự việc và có thể tham gia phiên tòa. Như vậy, các lý do mà bị đơn nêu ra để xin hoãn phiên tòa không thuộc trường hợp bất khả kháng nên Tòa án cấp sơ thẩm quyết định xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là đúng, phù hợp và có cơ sở.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn xác định không kháng cáo về nội dung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Từ những phân tích nêu trên Hội đồng xét xử thấy không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị đơn, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[2] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định nêu trên, nên được chấp nhận.

[3] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí trên số tiền phải trả cho nguyên đơn.

- Về án phí dân sự phúc thẩm: Do Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm nên người kháng cáo phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 147, 148, 308 và 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 26 và 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Không chấp nhận kháng cáo của Công ty Cổ phần X. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 35/2023/KDTM-ST ngày 13 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH B - Đ.

Buộc Công ty Cổ phần X có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty TNHH B - Đ số tiền nợ gốc là 817.802.847 đồng và tiền lãi chậm thanh toán tính là 204.512.219 đồng, tổng cộng 1.022.315.066 (Một tỷ không trăm hai mươi hai triệu ba trăm mười lăm nghìn không trăm sáu mươi sáu) đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận là 7,8%/năm.

2. Về án phí:

- Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

Công ty Cổ phần X phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 42.669.452 (Bốn mươi hai triệu sáu trăm sáu mươi chín nghìn bốn trăm năm mươi hai) đồng.

Công ty TNHH B - Đ được hoàn lại tiền tạm ứng án phí đã nộp là 20.246.824 (Hai mươi triệu hai trăm bốn mươi sáu nghìn tám trăm hai mươi bốn) đồng theo Biên lai thu số AA/2021/0035213 ngày 23/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm:

Công ty Cổ phần X phải chịu là 2.000.000 (Hai triệu) đồng, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 2.000.000 (Hai triệu) đồng theo Biên lai thu số AA/2022/0014108 ngày 25/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty Cổ phần X đã nộp đủ án phí phúc thẩm.

3. Các bên đương sự thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Bản án này có hiệu lực pháp luật ngay.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng thầu phụ số 922/2023/KDTM-PT

Số hiệu:922/2023/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 07/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về