Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 03/2022/KDTM-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H – TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 03/2022/KDTM-ST NGÀY 15/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Trong ngày 15/8/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số 07/2022/TLST- KDTM ngày 27 tháng 6 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2022/QĐXXST-KDTM ngày 27/7/2022; giữa:

*Nguyên đơn: Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang Địa chỉ trụ sở: SN 12, ngõ 192, đường Kim Giang, Tổ 29, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.

Do ông Hoàng Hồng Thái - Giám đốc - Đại diện theo pháp luật Địa chỉ chi nhánh Thái Nguyên: Số 471/1, đường Cách Mạng tháng 8, Tổ 16, phường Hương Sơn, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Quang H, sinh năm 1988 Nơi cư trú: Tổ 1, phường Cam Giá, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên ( có mặt) *Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Th, sinh năm 1974 ( có mặt) Địa chỉ: thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang;

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1974 ( có mặt) Địa chỉ: thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang;

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/6/2022, bản tự khai, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ông Phan Quang H trình bày:

Căn cứ theo Hợp đồng mua bán hàng hoá ngày 09/9/2017 giữa Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang và đại lý Dung Dũng (Địa chỉ: thôn H, xã H, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang), do ông Nguyễn Hữu Th là chủ cửa hàng, thể hiện việc Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang sẽ cung cấp cho đại lý của ông Thung một số mặt hàng sơn của Công ty KANSAI PAINT Việt Nam. Trong khoảng thời gian từ khi ký hợp đồng đến năm 2019, ông Thung có lấy của Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang một lượng hàng hóa nhất định. Ban đầu, ông Thung có thanh toán tiền hàng đầy đủ, nhưng đến năm 2019, lượng hàng ông Thung lấy ít dần, sau đó dừng hẳn và không thanh toán tiền hàng còn nợ Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang. Đến ngày 31/12/2020, giữa hai bên tiến hành đối chiếu công nợ và chốt với nhau bằng biên bản xác nhận công nợ ngày 31/12/2020, qua đó xác định ông Thung còn nợ công ty số tiền hàng là 340.263.314 đồng (Ba trăm bốn mươi triệu hai trăm sáu mươi ba ngàn ba trăm mười bốn đồng).

Khoảng tháng 3/2022, Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang đã làm đơn khởi kiện và đã được Toà án nhân dân huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang thụ lý giải quyết theo thông báo thụ lý số 67 ngày 14/4/2022. Quá trình giải quyết vụ án, hai bên đã thoả thuận và thống nhất ông Nguyễn Hữu Th sẽ trả cho Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang số tiền là 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng) làm một lần duy nhất, số tiền còn lại là 40.263.314đ (Bốn mươi triệu hai trăm sáu mươi ba ngàn ba trăm mười bốn đồng) công ty đồng ý bớt cho ông Thung và không yêu cầu ông Thung phải thanh toán. Ngày 22/4/2022, ông Nguyễn Hữu Th đã trả cho Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang số tiền là 250.000.000đ (Hai trăm năm mươi triệu đồng). Số tiền còn lại là 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) ông Thung hẹn đến ngày 05/5/2022 sẽ thanh toán nốt. Nếu sai, công ty có quyền khởi kiện lại theo quy định. Tuy nhiên từ đó đến nay ông Thung mới chỉ thanh toán cho công ty số tiền là 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Số tiền còn lại là 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) ông Thung nhiều lần hứa hẹn nhưng đều trì hoãn không trả.

Nay Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bắc Giang, yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Hữu Th đại lý Dung Dũng hoàn trả lại cho Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang tổng số tiền hàng còn nợ là 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng), không yêu cầu trả số tiền lãi.

Tại phiên tòa Ông Phan Quang H có mặt và vẫn giữ nguyên ý kiến yêu cầu ông Nguyễn Hữu Th chủ đại lý đại lý Dung Dũng hoàn trả lại cho Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang tổng số tiền hàng còn nợ là 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng), không yêu cầu trả số tiền lãi.

*Bị đơn ông Nguyễn Hữu Th trình bày: Ngày 09/9/2017, ông có ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang, lấy mặt hàng sơn của công ty KANSAIPAINT VIỆT NAM, đến năm 2020 thì ông không lấy nữa vì lý do chất lượng sơn kém và gọi lấy hàng công ty bảo dịch không trở được hàng. Ngày 31/12/2020 thì hai chốt số nợ tổng số tiền là 340.263.314 đồng theo biên bản xác nhận công nợ ngày 31/12/2020. Ông xác định chữ ký “Nguyễn Hữu Th” tại hợp đồng mua bán hàng hóa số 09.09.2017/HĐMB ngày 09/9/2017 và biên bản xác nhận công nợ ngày 31/12/2020 là do ông viết và ký. Ngày 22/4/2022 ông và công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang đã thỏa thuận là tôi có trách nhiệm trả số tiền 300.000.000đồng, và ông đã trả ngay 250.000.000 đồng tại ngày 22/4/2022, số tiền còn lại là 50.000.000 đồng thì hẹn đến ngày 05/5/2022 sẽ thanh toán, gia đinh ông đã thanh toán số tiền 10.000.000 đồng. Số tiền còn lại là 40.000.000 đồng. Nay Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang yêu cầu ông trả số tiền còn nợ là 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng) thì ông xác định còn nợ số tiền trên và xác định là nợ chung của vợ chồng, nhưng ông chưa đồng ý trả số tiền vì ông yêu cầu đại diện công ty cho người về để thăm thực tế các công trình mà ông đã sơn và sửa chữa khắc phục, sau khi giải quyết xong thì ông mới đồng ý trả. Vì trong thời gian lấy sơn Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang có giấy chứng nhận bảo hành cho gia đình ông và khách hàng nếu sơn mà bị bong tróc, bay màu thì công ty phải chịu trách nhiệm bảo hành cho khách hàng trong thời gian từ 1 năm đến 7 năm.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà Nguyễn Thị L trình bày:

Bà đồng ý với phần trình bày của ông Thung, không bổ sung gì và xác định là nợ chung của vợ chồng.

Tại phiên tòa ông Thung, bà Luận có mặt và vẫn giữ nguyên ý kiến của mình.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn, bị đơn chấp hành tốt.

-Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 144, khoản 1 Điều 147, Điều 271, 273 -Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 430; Điều 431; Điều 432; Điều 433; Điều 435; Điều 440 - Bộ luật dân sự; khoản 2 - Điều 26 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang. Buộc ông Nguyễn Hữu Th có nghĩa vụ trả cho Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang số tiền 40.000.000 đồng tiền gốc, không yêu cầu trả lãi.

-Về án phí: Ông Nguyễn Hữu Th phải chịu án phí kinh doanh sơ thẩm.

Quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và về thẩm quyền: Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Hữu Th, chủ đại lý Dung Dũng trả cho Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang số tiền mua hàng theo hợp đồng mua bán hàng hóa số 09.09.2017/HĐMB ngày 09/9/2017 và biên bản giao nhận tiền ngày 22/4/2022, xác định là quan hệ tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản". Bị đơn cư trú tại địa bàn huyện H, tỉnh Bắc Giang, Tòa án nhân dân huyện H thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. [2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Hữu Th, chủ đại lý Dung Dũng trả cho Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang số tiền mua hàng theo hợp đồng mua bán hàng hóa số 09.09.2017/HĐMB ngày 09/9/2017 và biên bản giao nhận tiền đề ngày 22/4/2022, số tiền còn nợ là 40.000.000 đồng, không yêu cầu trả lãi, Hội đồng xét xử thấy:

Ngày 09/9/2017 giữa Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang và đại lý Dung Dũng do ông Nguyễn Hữu Th là chủ cửa hàng. Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang sẽ cung cấp cho đại lý của ông Thung một số mặt hàng sơn của Công ty KANSAI PAINT Việt Nam. Ngày 31/12/2020, giữa hai bên chốt số tiền hàng ông Thung còn nợ của Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang là 340.263.314 đồng (Ba trăm bốn mươi triệu hai trăm sáu mươi ba ngàn ba trăm mười bốn đồng).

Tại biên bản giao nhận tiền đề ngày 22/4/2022, ông Nguyễn Hữu Th và công ty Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang đã thỏa thuận với nội dung “Bên A đồng ý thống nhất khoản nợ bên B phải thanh toán cho bên A số tiền là 300.000.000 đồng, số tiền còn lại là 40.263.314 đồng bên A bớt cho bên B, không yêu cầu phải thanh toán và ông Thung đã trả ngay 250.000.000 đồng, số tiền còn lại là 50.000.000 đồng thì hẹn đến ngày 05/5/2022 sẽ thanh toán. Nếu sai, công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang có quyền khởi kiện lại theo quy định”. Tuy nhiên từ đó đến nay ông Thung mới chỉ thanh toán cho công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang số tiền là 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Số tiền còn lại là 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) ông Thung chưa thanh toán. Ông Thung và bà Luận cũng xác định còn nợ của Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang số tiền là 40.000.000 đồng và xác định là nợ chung của vợ chồng. Ngoài ra, ông yêu cầu đại diện công ty cho người về để thăm thực tế các công trình mà ông đã sơn và sửa chữa khắc phục, sau khi giải quyết xong thì ông mới đồng ý trả số tiền trên, Hội đồng xét xử thấy: Trong Hợp đồng mua bán ngày 09/9/2017 giữa Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang với ông Nguyễn Hữu Th – chủ đại lý ký không có nội dung cam kết khắc phục hậu quả khi chất lượng sơn kém, mà giấy bảo hành chất lượng sơn là thỏa thuận ngoài. Hơn nữa, khi ký biên bản ngày 22/4/2022 thì ông Thung hoàn toàn minh mẫn, không bị ai ép buộc, tại nội dung thỏa thuận trong biên bản giao nhận tiền đề ngày 22/4/2022 thì hai bên không có thỏa thuận nội dung như ông trình bày. Do vậy, lý do ông đưa ra là không có căn cứ để giải quyết trong vụ án này. Xét yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang có căn cứ nên cần buộc ông Nguyễn Hữu Th và bà Nguyễn Thị L phải trả cho Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang số tiền là 40.000.000 đồng.

[3] Về nghĩa vụ trả tiền: Do ông Nguyễn Hữu Th đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, và ông Thung và bà Luận đều xác định là nợ chung của vợ chồng nên xác định nghĩa vụ trả nợ là của ông Thung và bà Luận là có căn cứ.

[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang được chấp nhận nên ông Thung và bà Luận phải chịu án phí kinh doanh sơ thẩm theo quy định.

Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[5] Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 3 Điều 144, khoản 1 Điều 147, Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 430; Điều 431; Điều 432; Điều 433; Điều 435; Điều 440

- Bộ luật dân sự; khoản 2 - Điều 26

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:

1. Về yêu cầu khởi kiện:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang.

Buộc ông Nguyễn Hữu Th và bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ liên đới trả cho Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang số tiền là 40.000.000 đồng.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Hữu Th và bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ liên đới chịu số tiền là 3.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

- Trả lại Công ty cổ phần đầu tư sản xuất và thương mại Long Giang số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.000.000 đồng theo biên lai thu số 0008149 ngày 27/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Bắc Giang.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

4. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 03/2022/KDTM-ST

Số hiệu:03/2022/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 15/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về