Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 01/2022/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 01/2022/KDTM-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 09/2020/TLST- KDTM ngày 14 tháng 12 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2022/QĐXXST- KDTM ngày 31 tháng 3 năm 2022. Giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn (viết tắt là TNHH) K - Người đại diện theo pháp luật: Bà Huỳnh Khánh Mỹ L – Giám đốc Địa chỉ: Số 296, ấp H, xã B, huyện K, tỉnh Kiên Giang.

-Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Minh K - sinh năm: 1995 là nhân viên. (Theo văn bản ủy quyền ngày 25/3/2022). Có mặt.

Đa chỉ: Ấp A, xã T, huyện M, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị đơn: Cửa hàng vật liệu xây dựng (viết tắt là VLXD) C - Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Công L. Vắng mặt. Địa chỉ: Ấp X, xã H, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn - Ông Trần Minh K trình bày:

Khong thời gian trước năm 2020, Công ty Trách nhiệm hữu hạn (viết tắt là TNHH) K có ký hợp đồng bán xi măng cho Cửa hàng Vật liệu xây dựng (viết tắt là VLXD) C, đến ngày 19/4/2020 thì Công Ty TNHH K ngưng bán hàng cho Cửa hàng Vật liệu xây dựng C do Cửa hàng VLXD C vi phạm thời gian thanh toán. Kết toán sổ sách thì Cửa hàng VLXD C còn nợ công ty số tiền 103.909.000 đồng. Từ ngày 19/4/2020 Công ty đã nhiều lần trao đổi, nhắc nhỡ nhưng Cửa hàng VLXD C chỉ thanh toán được 30.000.000 đồng, còn nợ lại số tiền gốc là 73.909.00 đồng.

Sau khi công ty khởi kiện tại Tòa án, ngày 01/3/2021 Cửa hàng VLXD C thanh toán được số tiền gốc 73.909.000 đồng. Ngày 28/5/2021 Công ty TNHH K có đơn xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền gốc 73.909.000 đồng. Công ty TNHH K chỉ yêu cầu Cửa hàng vật liệu xây dựng C phải thanh toán phần tiền lãi phát sinh theo hợp đồng mua bán ngày 02/01/2020 tính kể từ ngày 19/5/2020 đến ngày 28/02/2021 là 10.532.000 đồng.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho người đại diện của Cửa hàng VLXD C là ông Nguyễn Công L để ông trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH K, triệu tập tham gia các phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng ông L không nộp bản tự khai cho Tòa án, không đến Tòa án để tham gia giải quyết vụ kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Công ty TNHH K khởi kiện yêu cầu Cửa hàng VLXD C phải trả trả mua vật liệu xây dựng còn thiếu, đây là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận nên đây là tranh chấp kinh doanh thương mại về hợp đồng mua bán tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có trụ sở tại huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng tỉnh Kiên Giang thụ lý giải quyết là đúng trình tự, thủ tục.

Ông Nguyễn C là người đại diện hợp pháp của Cửa hàng VLXD C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông L.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét hợp đồng dân sự mua bán tài sản:

Quá trình giải quyết vụ án, Công ty TNHH K trình bày theo hợp đồng mua bán số 148/2020/HĐMB-KTT ngày 02/01/2020 thì công ty TNHH K sẽ bán cho Cửa hàng VLXD C sản phẩm là xi măng nhiều loại, hợp đồng thể hiện sản phẩm, quy cách, chất lượng, giá cả, giao nhận và điều kiện thanh toán và trách nhiệm của các bên. Hợp đồng được lập thành văn bản có chữ ký xác nhận của bên bán và bên mua. Như vậy có cơ sở xác định Công ty TNHH K và Cửa hàng VLXD C có giao kết hợp đồng mua bán là sự thật.

Các bên tham gia giao dịch có đầy đủ năng lực pháp luật hành vi dân sự, tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện, mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm đều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, hình thức giao dịch được thể hiện bằng lời nói, đối tượng của hợp đồng phù hợp quy định của pháp luật. Do đó hợp đồng mua bán được xác lập hợp pháp theo quy định tại Điều 117 và Điều 119 của Bộ luật Dân sự và Điều 24 của Luật Thương Mại.

Quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên đã giao nhận đủ số vật liệu xây dựng, cụ thể theo Biên bản đối chiếu và xác nhận công nợ ngày 11/7/2020 giữa Công ty TNHH K với Cửa hàng VLXD C xác định cửa hàng VLXD C còn nợ lại Công ty TNHH K số tiền nợ gốc là 73.909.000 đồng.

Tòa án đã thông báo cho ông L về việc khởi kiện của Công ty K để ông L trình bày ý kiến và cung cấp tài liệu chứng cứ, làm đơn yêu cầu phản tố (nếu có) theo quy định tại Điều 199 và Điều 200 của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng ông L không thực hiện.

Tuy nhiên, sau khi Tòa án tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông L thì ngày 01/3/2021, Cửa hàng VLXD C thanh toán được số tiền nợ gốc là 73.909.000 đồng cho Công ty TNHH K. Từ đó cho thấy, ông L đã thừa nhận và đã tự nguyện thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc cho Công ty TNHH K. Ngoài ra ông L không trình bày ý kiến hay cung cấp tài liệu chứng cứ gì cho Tòa án xem xét giải quyết theo quy khoản 2 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên ông L phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật.

Theo đơn khởi kiện Công ty TNHH K yêu cầu Cửa hàng VLXD C phải trả nợ gốc 73.909.000 đồng và tiền lãi. Ngày 01/3/2021 Cửa hàng VLXD C thanh toán được số tiền nợ gốc là 73.909.000 đồng nên Công ty TNHH K đã có đơn xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện trả nợ gốc 73.909.000 đồng. Xét thấy việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH K là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận, áp dụng khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự đình chỉ xét xử đối với yêu cầu trả nợ gốc của Công ty TNHH K đối với Cửa hàng VLXD C.

[2.2] Xét yêu cầu tính lãi của Công ty TNHH K Công ty TNHH K yêu cầu tính lãi suất từ ngày 19/5/2020 đến ngày 28/02/2021 đối với số tiền nợ gốc là 73.909.000 đồng, mức lãi suất 1.5%/01 tháng. Xét thấy theo thỏa thuận tại Điều 5 của Hợp đồng mua bán số 148/2020/HĐMB- KTT ngày 02/01/2020 thể hiện nội dung “ …Bên A có quyền tính lãi quá hạn nếu bên B thanh toán trễ hạn (lãi quá hạn được tính 1.5%/01 tháng) kể từ ngày 16 trở đi nếu có tranh chấp, thỏa thuận thì trước kỳ nghĩ tết Nguyên đáng hàng năm bên B phải trả dứt công nợ cho bên A…”. Theo tài liệu công ty TNHH K cung cấp, Cửa hàng VLXD C thanh toán tiền đến ngày 18/5/2020 thì không thực hiện nữa, Cửa hàng VLXD C đã không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền đúng hạn, đã vi phạm hợp đồng do đó Công ty TNHH K yêu cầu cửa hàng VLXD C phải thanh toán tiền lãi là có căn cứ theo quy định tại Điều 50, 55 và Điều 306 của Luật Thương Mại. Xét thấy mức lãi suất yêu cầu 1.5%/01 tháng, cụ thể 19/5/2020 đến ngày 28/02/2021 là 285 ngày: 73.909.000 đồng x 285 ngày x 1.5%/01tháng = 10.532.000 đồng là phù hợp với mức lãi suất quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Để bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án, kể từ ngày Công ty TNHH K có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, nếu Cửa hàng VLXD C không trả đủ tiền thì Cửa hàng VLXD C còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 .

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH K được chấp nhận toàn bộ nên Công ty TNHH K không phải chịu án phí.

Hoàn trả lại Công ty TNHH K số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.959.000 đồng (Một triệu, chín trăm, năm mươi chín nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0005763 ngày 11/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng.

Cửa hàng VLXD C phải nộp án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch là 10.532.000 đồng x 5% = 526.000 đồng (Năm trăm, hai mươi sáu nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 117 và Điều 119 và Điều 430, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 24, Điều 50, Điều 55 và Điều 306 của Luật Thương Mại năm 2005;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn K đối với Cửa hàng vật liệu xây dựng C.

- Buộc Cửa hàng vật liệu xây dựng C phải thanh toán cho Công ty trách nhiệm hữu hạn K số tiền lãi là 10.532.000 đồng (Mười triệu, năm trăm ba mươi hai nghìn đồng).

Kể từ ngày Công ty TNHH K có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, nếu Cửa hàng VLXD C không trả đủ tiền thì cửa hàng VLXD C còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện nợ gốc 73.909.000 đồng của Công ty TNHH K đối với Cửa hàng VLXD C.

2. Về án phí:

Yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH K được chấp nhận toàn bộ nên Công ty TNHH K không phải chịu án phí.

Hoàn trả lại Công ty TNHH K số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.959.000 đồng (Một triệu, chín trăm, năm mươi chín nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0005763 ngày 11/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng.

Cửa hàng VLXD C phải nộp án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch là 10.532.000 đồng x 5% = 526.000 đồng (Năm trăm, hai mươi sáu nghìn đồng).

Báo cho Công ty TNHH K biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 28/4/2022. Cửa hàng VLXD C được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1376
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 01/2022/KDTM-ST

Số hiệu:01/2022/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về