Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 62/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 62/2023/DS-PT NGÀY 23/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Ngày 23 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 437/2022/TLPT-DS ngày 13 tháng 12 năm 2022 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 96/2022/DS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 355/2023/QĐ-PT ngày 15 tháng 02 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trương Văn T, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn P1, sinh năm 1976 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố B, thị trấn C, huyện M, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Ông Trần Văn P, sinh năm 1973.

Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Lê Thị Phương V, sinh năm 1977 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

3. Người kháng cáo: Bị đơn ông Trần Văn P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Văn T và trong quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Từ tháng 9/2015 đến tháng 8/2019, ông T có bán thức ăn chăn nuôi heo cho ông P. Hai bên thỏa thuận bằng lời nói không lập thành văn bản. Khi ông T giao thức ăn, ông P ký nhận trên sổ và mỗi bên giữ 01 sổ theo dõi. Hình thức thanh toán là 04 tháng thanh toán 01 lần khi ông P bán heo.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông P nhiều lần không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Ngày 25/8/2019, ông P chốt nợ còn nợ ông T số tiền 88.613.000 đồng và cam kết đến hết tháng 8/2019 sẽ trả hết nợ cho ông T. Tuy nhiên, hết thời hạn như đã cam kết mặc dù ông T yêu cầu ông P trả hết số tiền còn nợ nhưng ông P vẫn không thực hiện.

Do đó, ông T khởi kiện yêu cầu ông P trả số tiền nợ gốc là 88.613.000 đồng và yêu cầu tính lãi theo mức lãi suất 0,83%/tháng từ ngày 25/8/2019 đến ngày 25/9/2022.

Trong quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Trần Văn P trình bày:

Ngày 07/8/2019, ông Trần Văn P có ký tên nhận nợ vào sổ ghi nợ của ông T số tiền nợ 113.613.000 đồng. Đến ngày 15/8/2019, ông P có trả cho ông T 20.000.000 đồng, sau đó trả thêm 5.000.000 đồng nữa, tổng cộng là 25.000.000 đồng. Tuy nhiên, việc ông P ký nhận nợ với ông T và trả tiền cho ông T chỉ là ký nhận nợ thay và trả nợ thay cho mẹ của ông P là bà Phan Thị C (79 tuổi, trú tại: ấp A, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre) chứ thực tế ông P không có mua thức ăn chăn nuôi heo của ông T. Chữ ký tên Trần Văn P trong tài liệu, chứng cứ do phía nguyên đơn cung cấp là chữ ký tên của ông Trần Văn P.

Do ông P không có giao dịch mua bán với ông T nên ông P không đồng ý trả tiền theo yêu cầu của ông T.

Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam đưa vụ án ra xét xử. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 96/2022/DS-ST ngày 28/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam đã tuyên:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Văn T. Buộc ông Trần Văn P trả cho ông Trương Văn T số tiền 115.826.000 (một trăm mười lăm triệu tám trăm hai mươi sáu nghìn) đồng.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về nghĩa vụ chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04/10/2022 bị đơn ông Trần Văn P kháng cáo. Nội dung kháng cáo: Ông P yêu cầu hủy Bản án sơ thẩm số 96/2022/DS-ST ngày 28/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam với lý do thu thập chứng cứ chưa toàn diện, đầy đủ và yêu cầu đưa bà Phan Thị C vào tham gia tố tụng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, nguyên đơn không đồng ý với nội dung kháng cáo của bị đơn. Hai bên không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng, những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn P, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 96/2022/DS-ST ngày 28/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Xét kháng cáo của bị đơn ông Trần Văn P; ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Nguyên đơn ông Trương Văn T yêu cầu ông Trần Văn P phải có nghĩa vụ trả cho ông số tiền nợ do giao dịch mua bán thức ăn chăn nuôi là 88.613.000 đồng, yêu cầu tính lãi theo mức lãi suất 0,83% tháng, từ ngày 25/8/2019 đến ngày 25/9/2022. Bị đơn ông Trần Văn P không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn, ông thừa nhận chữ ký trong giấy nợ ngày 07/8/2019 là do ông ký, nhưng ông chỉ ký thay cho mẹ của ông là bà Phan Thị C, thực tế ông không có mua thức ăn chăn nuôi heo của ông T. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông T, ông P không đồng ý nên có đơn kháng cáo.

[2] Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Trần Văn P đều thừa nhận chữ ký tên Trần Văn P trong sổ ghi nợ mua bán thức ăn do nguyên đơn cung cấp cho Tòa án do ông Trần Văn P ký nhận số nợ 113.613.000 đồng vào ngày 07/8/2019. Đến ngày 15/8/2019, ông P có trả cho ông T 20.000.000 đồng và sau đó trả tiếp 5.000.000 đồng vào ngày 25/8/2019. Lời thừa nhận này, phù hợp với số tiền nợ gốc mà nguyên đơn yêu cầu là 88.613.000 đồng; phù hợp với những chứng cứ mà cấp sơ thẩm thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án do nguyên đơn cung cấp. Người đại diện theo ủy quyền của ông P cho rằng việc ông P ký nhận nợ và trả tiền nợ cho ông T chỉ là ký nhận nợ và trả nợ thay cho bà Phan Thị C là mẹ của ông P. Tuy nhiên, phía bị đơn không cung cấp được bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh.

Từ những phân tích trên, xét kháng cáo của ông Trần Văn P không có căn cứ nên không được chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[4] Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Trần Văn P phải chịu án phí phúc thẩm theo Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn P.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 96/2022/DS-ST ngày 28/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre.

Căn cứ Điều 430, 440, 357, 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Văn T.

Buộc ông Trần Văn P trả cho ông Trương Văn T số tiền 115.826.000 (một trăm mười lăm triệu tám trăm hai mươi sáu nghìn) đồng, trong đó gồm 88.613.000 (tám mươi tám triệu sáu trăm mười ba nghìn) đồng tiền nợ gốc và 27.213.000 (hai mươi bảy triệu hai trăm mười ba nghìn) đồng tiền lãi.

Kể từ khi Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí

2.1. Án phí sơ thẩm:

Ông Trần Văn P phải chịu số tiền 5.791.000 (năm triệu bảy trăm chín mươi mốt nghìn) đồng.

Hoàn trả cho ông Trương Văn T số tiền 2.804.000 (hai triệu tám trăm lẻ bốn nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007955 ngày 04/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M.

2.2. Án phí phúc thẩm:

Ông Trần Văn P phải chịu số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009553 ngày 11/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 62/2023/DS-PT

Số hiệu:62/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về