TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 133/2023/DS-ST NGÀY 26/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN
Trong ngày 26 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh C. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 266/2023/TLST-DS ngày 12 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp hợp đồng mua bán, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 356/2023/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị A, sinh năm 1964; (Xin vắng mặt). Địa chỉ cư trú: ấp N, xã T, huyện T, tỉnh C;
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T; (Vắng mặt).
Địa chỉ cư trú: ấp K, xã T, huyện T, tỉnh C;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, lời khai của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án và được bổ sung tại phiên tòa thể hiện:
Bà A là nguyên đơn trình bày theo đơn khởi kiện ngày 10/10/2023: Ngày 25/4/2022, ông Nguyễn Văn T (là lái heo) có đến nhà của bà A hỏi mua heo thịt, bà đồng ý bán. Sau khi cân heo được tổng cộng 406,5kg giá 54.000đ/kg thành tiền 21.951.000đ (thể hiện phiếu tính tiền). Ông T trả tiền mặt được 5.500.000đ còn nợ lại số tiền 16.451.000đ và hứa ngày hôm sau thanh toán đủ. Nhưng ông T không thực hiện mà cố tình trì hoãn không chịu thanh toán.
Bà A có làm đơn đến chính quyền địa phương can thiệp. Tại biên bản lập ngày 08/8/2022 tại ấp Kinh 5A, xã T, huyện T ông T có cam kết đến ngày 17/8/2022 sẽ trả cho bà A thêm số tiền 5.000.000đ và phần còn lại sẽ thanh toán sẽ thanh toán dứt điểm vào ngày 10/9/2022. Nhưng ông T không thực hiện theo cam kết.
Nay bà A yêu cầu buộc ông T phải có trách nhiệm thanh toán cho bà số tiền nợ mua thịt heo là 16.451.000đ. Ngoài ra không yêu cầu gì khác.
Ông T là bị đơn: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông T và ông T biết được yêu cầu khởi kiện của bà A nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do, không có gửi ý kiến bằng văn bản của mình gửi Tòa án biết về nội dung yêu cầu khởi kiện của bà A.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cho đến khi mở phiên tòa các đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào lời trình bày của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án và bổ sung tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Xét đơn yêu cầu của nguyên đơn là bà Lê Thị A với bị đơn là ông Nguyễn Văn T thuộc lĩnh vực dân sự, tranh chấp hợp đồng mua bán; Ông T là bị đơn có địa chỉ cư trú tại ấp kinh 5A, xã T, huyện T, tỉnh C nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện T theo quy định tại Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự nhưng ông T là bị đơn vắng mặt không rõ lý do đến lần thứ 2 và bà A xin vắng mặt nên Tòa án vẫn tiến hành phiên tòa xét xử theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Xét yêu cầu của bà A: Vào ngày 25/4/2022, ông Nguyễn Văn T (là lái heo) có đến nhà của bà A hỏi mua heo thịt, bà đồng ý bán là có xảy ra. Căn cứ vào phiếu tính tiền sau khi cân heo được tổng cộng 406,5kg giá 54.000đ/kg thành tiền 21.951.000đ. Ông T trả tiền mặt được 5.500.000đ còn nợ lại số tiền 16.451.000đ và hứa ngày hôm sau thanh toán đủ. Nhưng ông T không thực hiện mà cố tình trì hoãn không chịu thanh toán nên bà A có làm đơn đến chính quyền địa phương can thiệp.
Căn cứ vào biên bản lập ngày 08/8/2022 tại ấp K, xã T, huyện T do trưởng ấp kinh 5A và công an xã T lập thể hiện ông T thừa nhận còn nợ những người mà ông T đã mua heo thịt chưa thanh toán như: Bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Đ, bà Trần Ngọc A, bà Lê Thị A, bà Nguyễn Thị Th, bà Huỳnh Thị N, bà Võ Thị T. Trong đó, ông T thừa nhận còn nợ tiền mua heo chưa thanh toán như lời trình bày của bà A và ông T có cam kết đến ngày 17/8/2022 sẽ trả cho bà A thêm số tiền 5.000.000đ và phần còn lại sẽ thanh toán sẽ thanh toán dứt điểm vào ngày 10/9/2022. Nhưng đến nay ông T không thực hiện theo cam kết nên bà A khởi kiện là có cơ sở chấp nhận.
[4] Do yêu cầu của bà A được chấp nhận nên ông T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 227, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 430, 440 của Bộ luật Dân sự;
Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị A đối với ông Nguyễn Văn T. Buộc ông T có nghĩa vụ thanh toán cho bà A số tiền 16.451.000đ (Mười sáu triệu bốn trăm năm mươi mốt ngàn đồng).
2/ Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
Ông T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm 822.000đ (chưa nộp).
Bà A không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm. Vào ngày 11/10/2023, bà A dự nộp số tiền 411.000đ tại biên lai số 0003903 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T được nhận lại khi quyết định có hiệu lực.
Bà A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 133/2023/DS-ST
Số hiệu: | 133/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về