TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 08/2023/KDTM-ST NGÀY 22/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Ngày 22 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 06/2023/TLST-KDTM, ngày 09 tháng 6 năm 2023, về việc “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 305/2023/QĐXXST-KDTM, ngày 18 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần X.
Địa chỉ: Quốc lộ C, ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Mai A, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Mai A: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1987. Địa chỉ: Tổ D, khóm M, phường M, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp (văn bản ủy quyền ngày 11/9/2023).
- Bị đơn: Công ty TNHH X1.
Địa chỉ: K, thị trấn N, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trương Bá K, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc.
(Chị L có mặt, người đại diện Công ty TNHH X1 vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện, quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn là Công ty Cổ phần X có chị Nguyễn Thị L là người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Công ty cổ phần X (gọi tắt là Công ty X) có ký hợp đồng kinh tế với Công ty TNHH X1 (gọi tắt Công ty X1), hợp đồng số 69/2020/HĐKT-MK-HT, ngày 09/12/2020, về việc cung cấp bê tông thương phẩm cho công trình cống cho Công ty X1 để thi công công trình cống tọa lạc ấp Đ, xã H, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Công ty X có cung cấp, bơm bê tông cho Công ty X1 thi công công trình Cống tọa lạc ấp Đ, xã H, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Công ty X1 gọi điện thoại đặt hàng, cho biết thời gian giao nhận tới công trường, Công ty X giao hàng tại địa điểm thời gian theo yêu cầu, hai bên xác nhận hàng hóa và tiến hành xuất hóa đơn giá trị gia tăng.
Theo thỏa thuận thì Công ty X1 tạm ứng trước 50% giá trị đơn hàng, 50% giá trị đơn hàng còn lại Công ty X1 thanh toán cho Công ty X sau 10 ngày, kể từ ngày nhận được bê tông của Công ty X cung cấp.
Công ty X đã hoàn thành xong nghĩa vụ giao hàng, xuất hóa đơn cho Công ty X1, đã gửi hóa đơn, công nợ yêu cầu thanh toán số tiền còn lại 230.156.000 đồng cho Công ty X1.
Đến ngày 27/6/2022 Công ty X1 còn nợ Công ty X số tiền là 230.156.000 đồng.
Công ty X1 có gửi công văn ngày 27/6/2022 xác nhận công nợ và hẹn làm hồ sơ quyết toán sẽ thanh toán nhưng đến nay Công ty X đã nhiều lần liên hệ, nhắc nhở nhưng Công ty X1 vẫn chưa thanh toán số tiền còn nợ.
Nay Công ty cổ phần X yêu cầu Công ty TNHH X1 phải trả cho Công ty cổ phần X số tiền còn nợ là 230.156.000 đồng và tiền với lãi suất 0,83%/tháng, tính từ ngày 27/6/2022 đến ngày 20/3/2023 là 08 tháng 26 ngày với số tiền (tính tròn số) là 16.944.000 đồng. Tổng cộng số tiền nợ và tiền lãi là 247.100.000 đồng và yêu cầu tiếp tục tính lãi cho đến khi trả nợ xong. Ngoài ra không yêu cầu gì.
- Bị đơn là Công ty TNHH X1 đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không rõ ký do, không nộp văn bản ý kiến cho Tòa án và đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng đều không có văn bản ý kiến gửi cho Tòa án đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không tham gia các phiên hòa giải, phiên tòa xét xử.
- Kèm theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn đã giao nộp cho Tòa án Công ty X cung cấp chứng cứ chứng minh: Hợp đồng kinh tế số 69/2020/HĐKT-MK-HT, ngày 09/12/2020; đề nghị thanh toán; Công văn ngày 27/6/2022, ngày 22/3/2023 của Công ty TNHH X1 về việc phản hồi đề nghị thanh toán; biên bản đối chiếu công nợ ngày 21/9/2023; có thể hiện số tiền cụ thể mà bị đơn còn nợ của nguyên đơn, Tòa án đã thông báo cho bị đơn biết nhưng bị đơn vẫn không có ý kiến gì nên đây là tình tiết không cần phải chứng minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Theo yêu cầu khởi kiện và tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án thể hiện Công ty cổ phần X có ký hợp đồng kinh tế với Công ty TNHH X1 H, các bên kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận nên xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” theo quy định tại Điều 3 của Luật thương mại và khoản 1 Điều 30 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Các bên thỏa thuận và ký hợp đồng thi công công trình cống tọa lạc ấp Đ, xã H, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35; điểm g khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Bị đơn là Công ty TNHH X1 được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do và không gửi, nộp văn bản ý kiến cho Tòa án. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là Công ty TNHH X1 theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về tiền nợ: Xét yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần X yêu cầu Công ty TNHH X1 phải trả cho Công ty cổ phần X số tiền còn nợ là 230.156.000 đồng và tiền với lãi suất 0,83%/tháng, tính từ ngày 27/6/2022 đến ngày 20/3/2023 là 08 tháng 26 ngày với số tiền (tính tròn số) là 16.944.000 đồng. Tổng cộng số tiền nợ và tiền lãi là 247.100.000 đồng và yêu cầu tiếp tục tính lãi cho đến khi trả nợ xong. Ngoài ra không yêu cầu gì.
Nguyên đơn là Công ty X cung cấp chứng cứ chứng minh: Hợp đồng kinh tế số 69/2020/HĐKT-MK-HT, ngày 09/12/2020; đề nghị thanh toán; Công văn ngày 27/6/2022, ngày 22/3/2023 của Công ty TNHH X1 về việc phản hồi đề nghị thanh toán; Biên bản đối chiếu công nợ ngày 21/9/2023.
Xét thấy, Quá trình Tòa án thụ lý vụ án và thu thập chứng cứ, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng, thể hiện rõ nội dung vụ việc và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cũng như tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn nộp kèm theo đơn khởi kiện cho phía bị đơn. Tuy nhiên phía bị đơn vẫn không có văn bản ý kiến gửi cho Tòa án cũng như không có ý kiến phản bác, yêu cầu phản tố hay yêu cầu gì khác liên quan đến yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn. Mặt khác, tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Mặt khác theo Biên bản đối chiếu công nợ ngày 21/9/2023 thể hiện tổng số tiền của các hóa đơn là 1.540.156.000 đồng và tổng số tiền Công ty X1 đã thanh toán cho Công ty X là 1.310.000.000 đồng, số tiền còn nợ chưa thanh toán là 230.156.000 đồng; Công ty X có văn bản đề nghị thanh toán số tiền còn nợ là 230.156.000 đồng đã gửi Công ty X1 lần cuối vào ngày 10/3/2023 và tại Công văn ngày 27/6/2022, ngày 22/3/2023 của Công ty X1 về việc phản hồi đề nghị thanh toán ngày 22/6/2022, ngày 22/3/2023 thể hiện Công ty X1 còn nợ Công ty X số tiền 230.156.000 đồng và cam kết “sẽ thanh toán công nợ trong thời gian sớm nhất”.
Do đó, Hội đồng xét xử xác định giữa Công ty X và Công ty X1 có thỏa thuận, ký hợp đồng kinh tế số 69/2020/HĐKT-MK-HT, ngày 09/12/2020, về việc cung cấp bê tông thương phẩm cho Công ty X1 đề thi công công trình cống tọa lạc ấp Đ, xã H, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; Công ty X1 còn nợ Công ty X số tiền là 230.156.000 đồng là có thật.
Hội đồng xét xử xét thấy trình bày của phía nguyên đơn là có căn cứ nên chấp nhận. Bởi vì, căn cứ vào khoản 1 Điều 24 của Luật thương mại quy định: “Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể” và tại khoản 2 Điều 50 của Luật thương mại quy định: “1. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng .....; 2. Bên mua phải tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục đã thỏa thuận.....”.
Căn cứ Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 24, 50 của Luật thương mại, Công ty cổ phần X yêu cầu Công ty TNHH X1 phải trả cho Công ty cổ phần X số tiền còn nợ là 230.156.000 đồng là có căn cứ nên chấp nhận.
[2.2] Về tiền lãi: Công ty cổ phần X yêu cầu Công ty TNHH X1 phải trả cho Công ty cổ phần X tiền với lãi suất 0,83%/tháng, tính từ ngày 27/6/2022 đến ngày 20/3/2023 là 08 tháng 26 ngày với số tiền là 16.944.000 đồng.
Xét thấy, Theo thỏa thuận trong hợp đồng thể hiện việc thanh toán được thực hiện bằng chuyển khoản hoặc tiền mặt và đúng hạn, Công ty X1 tạm ứng trước 50% giá trị đơn hàng, 50% giá trị đơn hàng còn lại Công ty X1 thanh toán cho Công ty X sau 10 ngày, kể từ ngày nhận được bê tông của Công ty X cung cấp; Biên bản đối chiếu công nợ ngày 21/9/2023; Công văn ngày 27/6/2022, ngày 22/3/2023 của Công ty X1 về việc phản hồi đề nghị thanh toán ngày 22/6/2022, ngày 22/3/2023 và theo lãi suất bình quân của 03 ngân hàng: Ngân hàng N Chi nhánh Đ; ngân hàng C Chi nhánh Đ; ngân hàng N1 Chi nhánh Đ có trụ sở tại thành phố C tại thời điểm xét xử.
Căn cứ Điều 306 của Luật thương mại, Công ty X yêu cầu Công ty X1 trả tiền lãi với lãi suất 0,83%/tháng, tính từ ngày 27/6/2022 đến ngày 20/3/2023 là 08 tháng 26 ngày với số tiền là 16.944.000 đồng là có căn cứ nên chấp nhận.
[3] Từ những nhận định và căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần X. Công ty X1 phải có nghĩa vụ trả cho Công ty X số tiền còn nợ và tiền lãi, tổng cộng là 247.100.000 đồng.
[4] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[5] Về quyền kháng cáo: Đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 3, 24, 50, 306 của Luật thương mại; Điều 30, 35, 39, 40, 92, 147, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần X.
Buộc Công ty TNHH X1 phải trả cho Công ty cổ phần X số tiền là 247.100.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Về án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Buộc Công ty TNHH X1 phải nộp 12.355.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Trả lại cho Công ty cổ phần X tiền tạm ứng án phí đã nộp là 6.178.000 đồng theo biên lai tạm thu 0012390, ngày 05/6/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 08/2023/KDTM-ST
Số hiệu: | 08/2023/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 22/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về