TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 06/2023/KDTM-ST NGÀY 27/03/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Trong ngày 27 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 59/2022/KTST ngày 30/11/2022 về Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 195/2023/QĐXXST-KDTM ngày 20/02/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 212/2023/QĐST-KDTM ngày 08/03/2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH X ; Địa chỉ: A Q, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Xuân T, sinh năm 1996; Địa chỉ: A Q, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.; Địa chỉ liên hệ: B N, ấp A, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt)
Bị đơn: Công ty TNHH X1;
Người đại diện pháp luật: Ông Kiều Gia P - Chức vụ: Giám đốc Địa chỉ: F H, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 05/11/2021 và các biên bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm Người đại diện theo ủy quyền nguyên đơn bà Nguyễn Thị Xuân T trình bày:
Nguyên đơn là Công ty TNHH X (gọi tắt là Công ty X) có ký kết Hợp đồng mua bán Bê tông nhựa nóng số 134A-08-2015/HĐMB với Công ty TNHH X1 với nội dung là hai công ty đồng ý mua và bán sản phẩm Bê tông nhựa nóng tại chân công trình “Xây dựng mở rộng trường THPT N - Lô P3, Khu A, Phường T, Quận G”. Công ty X đã giao hàng cho Công ty X1 và tiến hành đối chiếu xác nhận công nợ theo số lượng thực tế giao nhận và thanh toán một phần, còn lại số tiền theo Bảng đối chiếu chi tiết công nợ ngày 31/12/2015 là 493.722.000 đồng. Sau nhiều lần Công ty X yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì phía Công ty X1 chuyển trả thêm 443.000.000 đồng vào các ngày 26/01/2018; 10/4/2018; 04/12/2018; 19/3/2019 và ngày 03/6/2019 rồi ngưng không thanh toán nữa. Hiện tại, Công ty X1 vẫn còn nợ Công ty X tổng số tiền là 50.722.000 đồng (Năm mươi triệu, bảy trăm hai mươi hai nghìn đồng). Ngày 05/11/2021 Công ty X có làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân quận T giải quyết buộc Công ty X1 phải thanh toán cho Công ty X số tiền: 59.804.184 đồng (Năm mươi chín triệu tám trăm lẻ bốn nghìn một trăm tám mươi bốn đồng), gồm:
- Số tiền nợ gốc là: 50.722.000 đồng (Năm mươi triệu bảy trăm hai mươi hai nghìn đồng);
- Số tiền lãi suất nợ quá hạn tạm tính từ ngày 03/6/2019 đến ngày 01/11/2021 (882 ngày): 9.082.184 đồng (Chín triệu không trăm tám mươi hai nghìn một trăm tám mươi bốn đồng). Theo Công văn số 275/BIDV.CL-KHDN1 ngày 29/10/2021 của Ngân hàng B1 thì mức lãi suất cho vay quá hạn tại thời điểm đó là 7.41%/năm.
Đen ngày 19/9/2022 Công ty X có làm đơn yêu cầu chuyển vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè giải quyết để thuận tiện cho việc xác minh, tống đạt và giải quyết vụ án được nhanh chóng và đã được Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè thụ lý số 59/2022/TB-TLVA ngày 30/11/2022.
Vì những lẽ trên, kính đề nghị Quý Tòa xem xét tuyên: Buộc Công ty X1 phải thanh toán cho Công ty C tổng số tiền: 59.804.184 đồng (Năm mươi chín triệu tám trăm lẻ bốn nghìn một trăm tám mươi bốn đồng) Trả một lần ngay sau khi có quyết định, bản án Tòa án có hiệu lực pháp luật. Lãi suất sẽ được tiếp tục tính cho đến khi quyết định, Bản án có hiệu lực pháp luật.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Quốc B thống nhất với lời khai của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Xuân T và không có ý kiến gì thêm.
Bị đơn Công ty TNHH X1:
Mặc dù Tòa án tiến hành tống đạt và niêm yết công khai các văn bản tố tụng giấy triệu tập làm việc, thông báo tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cùng với quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng bị đơn Công ty TNHH X1 vắng mặt không lý do.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định tại Điều 198 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, như lập hồ sơ vụ án, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, tống đạt giấy triệu tập, các quyết định của Tòa án cho đương sự, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định, thành phần Hội đồng xét xử và trình tự thủ tục tố tụng tại phiên tòa đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, bị đơn vắng mặt không tham gia tố tụng, không chấp hành các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Căn cứ Hợp đồng mua bán Bê tông nhựa nóng số 134A-08-2015/HĐMB của Công ty X với Công ty TNHH X1. Theo nội dung Hợp đồng, hai công ty đồng ý mua và bán sản phẩm Bê tông nhựa nóng tại chân công trình “Xây dựng mở rộng trường THPT N- Lô P3, Khu A, Phường T, Quận G”. Công ty X đã giao hàng cho Công ty X1 và tiến hành đối chiếu xác nhận công nợ theo số lượng thực tế giao nhận và thanh toán một phần, còn lại số tiền theo Bảng đối chiếu chi tiết công nợ ngày 31/12/2015 là 493.722.000 đồng. Vào các ngày 26/01/2018; 10/4/2018; 04/12/2018; 19/3/2019 và ngày 03/6/2019 Công ty X1 chuyển trả thêm 443.000.000 đồng rồi ngưng không thanh toán nữa. Hiện tại, Công ty X1 vẫn còn nợ Công ty X tổng số tiền là 50.722.000 đồng (Năm mươi triệu, bảy trăm hai mươi hai nghìn đồng). Do đó việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả nợ số tiền gốc và lãi suất là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 177; Điều 179; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 463; 465 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự. Căn cứ Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của của đương sự, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Nguyên đơn Công ty TNHH X khởi kiện yêu cầu yêu cầu Tòa án Nhân dân huyện Nhà Bè buộc Công ty TNHH X1 phải thanh toán đầy đủ một lần theo Biên bản thanh lý hợp đồng số D2-22/2018/TLHĐ/TP ngày 08/01/2020 với số tiền thanh toán là: 59.804.184 đồng (Năm mươi chín triệu tám trăm lẻ bốn nghìn một trăm tám mươi bốn đồng), gồm:
- Số tiền nợ gốc là: 50.722.000 đồng (Năm mươi triệu bảy trăm hai mươi hai nghìn đồng);
- Số tiền lãi suất nợ quá hạn tạm tính từ ngày 03/6/2019 đến ngày 01/11/2021 (882 ngày); 9.082.184 đồng (Chín triệu không trăm tám mươi hai nghìn một trăm tám mươi bốn đồng). Theo Công văn so 275/BIDV.CL-KHDN1 ngày 29/10/2021 của Ngân hàng B1 thì mức lãi suất cho vay quá hạn tại thời điểm đó là 7.41%/năm. Và tiếp tục tính cho đến khi xét xử.
Trả một lần ngay sau khi có quyết định, bản án Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè có thẩm quyền giải quyết vụ án.
Về việc vắng mặt của đương sự: Bị đơn Công ty TNHH X1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên được xem là từ bỏ quyền trình bày, đưa ra ý kiến chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo thủ tục chung.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy:
Theo hợp đồng mua bán Bê tông nhựa nóng số 134A-08-2015/HĐMB ngày 03/08/2015 giữa Công ty TNHH X với Công ty TNHH X1 có nội dung hai công ty đồng ý mua và bán sản phẩm Bê tông nhựa nóng tại chân công trình “Xây dựng mở rộng trường THPT N - Lô P3, Khu A, Phường T, Quận G”. Theo thỏa thuận, công ty TNHH X đã giao hàng cho Công ty TNHH X1 và tiến hành đối chiếu xác nhận công nợ theo số lượng thực tế giao nhận và thanh toán một phần, số tiền Công ty X1 còn nợ lại theo Bảng đối chiếu chi tiết công nợ ngày 31/12/2015 là 493.722.000 đồng. Sau nhiều lần Công ty X yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì phía Công ty X1 chuyển trả thêm 443.000.000 đồng vào các ngày 26/01/2018; 10/4/2018; 04/12/2018; 19/3/2019 và ngày 03/6/2019 sau đó ngưng không thanh toán nữa. Như vậy, có căn cứ xác định việc Công ty X1 vẫn chưa thanh toán số tiền còn lại 50.722.000 đồng theo Hợp đồng mua bán Bê tông nhựa nóng số 134A-08-2015/HĐMB ngày 03/08/2015. Do đó, Công ty TNHH X khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH XI phải thanh toán đầy đủ một lần số tiền 50.722.000 đồng và tiền lãi suất nợ quá hạn được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Đối với số tiền lãi suất nợ quá hạn tạm tính từ ngày 04/6/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm 27/3/2023. Theo Công văn số 275/BIDV.CL-KHDN1 ngày 29/10/2021 của Ngân hàng B1 thì mức lãi suất cho vay quá hạn tại thời điểm đó là 7.41%/năm, được tính như sau:
Từ ngày 04/6/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm 27/3/2023 là: 43 tháng 23 ngày x 50.722.000 đồng x 7.41%/năm (0,6175%/tháng) = 13.492.056 đồng Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nguyên đơn tính lãi quá hạn là 13.493.015 đồng và lãi tính tiếp kể từ ngày 28/3/2023 trên số nợ gốc 50.722.000 đồng cho đến khi trả hết nợ gốc với mức lãi suất theo quy định tại Điều 306 Luật thương mại 2005.
[3] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Do yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận toàn bộ nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; Khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 68; Điều 70; Điều 71; Điều 72; Điều 147; Điều 225; Điều 264; Điều 266; Điều 267; Điều 269; Điều 271; Điều 273; Điều 278; Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 357; Điều 466; Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 306 Luật thương mại 2005;
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 mức thu miễn giảm thu nộp quản lý sử dụng án phí lệ phí Tòa án do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 31/12/2016.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn Công ty TNHH X.
Buộc Công ty TNHH X1 phải thanh toán cho Công ty TNHH X một lần tổng số tiền gốc và lãi: 64.214.056 đồng (Sáu mươi bốn triệu hai trăm mười bốn nghìn không trăm năm mươi sáu đồng).
- Kể từ ngày Công ty TNHH X có đơn yêu cầu thi hành án nếu Công ty TNHH X1 chưa thi hành trả khoản tiền nêu trên cho Công ty TNHH X thì Công ty TNHH X1 còn phải chịu khoản lãi suất phát sinh do chậm thi hành án trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả 2. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Bị đơn Công ty X1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) nộp tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Hoàn trả lại cho nguyên đơn Công ty TNHH X số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2021/0035313 ngày 04/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú thành phố Hồ Chí Minh.
3. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 06/2023/KDTM-ST
Số hiệu: | 06/2023/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 27/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về