Bản án về tranh chấp hợp đồng hụi số 62/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIÊN LƯƠNG - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 62/2022/DS-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỤI

Ngày 31 tháng 5 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 157/2022/TLST-DS ngày 10 tháng 3 năm 2022 về việc: “Tranh chấp hợp đồng dân sự về hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2022/QĐXXST-DS, ngày 29 tháng 4 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2022/QĐST-DS ngày 13/5/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1965, có mặt. Địa chỉ: Khu phố XN, thị trấn KL, huyện KL, tỉnh KG.

Bị đơn: Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1971, có mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Chi L, sinh năm 1971, vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Tổ 17, Khu phố XN, thị trấn KL, huyện KL, tỉnh KG.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/11/2021 và các lời khai tại toà nguyên đơn Bà Nguyễn Thị Thuỷ trình bày: Bà Nguyễn Thị Ng có tham gia nhiều dây hụi do bà làm chủ hụi cụ thể như sau:

1/ Dây hụi 15 ngày, hụi sổ vào ngày 10 và 25 hàng tháng âm lịch, loại hụi 10.000.000đ, sổ vào ngày 10/02/2020 âm lịch, mãn ngày 10/01/2021 âm lịch, tổng cộng có 25 chân, bà Ng tham gia 01 chân. Vào ngày 10/02/2020 âm lịch, dây hụi mở lần đầu thì bà Ng hốt, trong đó hụi sống 24 x 7.700.000đ = 184.800.000đ, trừ tiền hoa hồng (cò) 6.000.000đ, bà Hiền nhận số tiền 178.800.000đ (có phiếu giao tiền).

2/ Dây hụi 10 ngày, hụi sổ vào ngày 08, 18, 28 hàng tháng âm lịch, loại hụi 3.000.000đ, sổ vào ngày 08/10/2019 âm lịch, mãn ngày 18/01/2021 âm lịch, gồm có 47 chân bà Ng tham gia 01 chân vào ngày 18/11/2019 âm lịch, dây hụi sổ lần thứ 05 thì bà Ng hốt, trong đó hụi sống 04 đầu x 3.000.000đ = 12.000.000đ, hụi chết là 42 đầu x 2.400.000đ = 100.800.000đ, tổng cộng là 112.800.000đ, trừ tiền cò (hoa hồng) 1.500.000đ, bà Ng nhận số tiền 111.300.000đ (có phiếu giao hụi).

3/ Dây hụi 07 ngày, loại hụi 2.000.000đ, sổ vào ngày 01/6/2019 âm lịch, mãn ngày 16/6/2020 âm lịch, gồm có 58 chân bà Ng tham gia 01 chân vào ngày 01/6/2019 âm lịch, bà Ng hốt lần dầu, trong đó hụi sống 57 đầu x 1.500.000đ = 78.000.000đ, trừ tiền cò (hoa hồng) 1.200.000đ, bà Ng nhận số tiền 76.800.000đ + 6.000.000 tiền mượn thêm, tôi giao tổng cộng cho bà Ng là 82.800.000đ(có phiếu giao hụi).

4/ Dây hụi 05 ngày, loại hụi 1.000.000đ, sổ vào ngày 10/01/2020 âm lịch, mãn ngày 05/12/2020 âm lịch, gồm có 72 chân bà Ng tham gia 02 chân vào ngày 15/01/2020 âm lịch, hụi sổ lần thứ 02 bà Ng hốt 02 chân, trong đó hụi chết 01 đầu là 1.000.000đ, hụi sống 70 đầu x 740.000đ = 51.800.000đ, trừ tiền cò (hoa hồng) 600.000đ, bà Ng nhận số tiền 52.200.000đ x 02 chân = 104.400.000đ.

Bà Ng có đóng lại hụi chết nhưng không đầy đủ, tổng số tiền bà Ng còn nợ bà số tiền hụi là 467.000.000đ. Nay bà yêu cầu bà Ng trả cho tôi số tiền 467.000.000đ và yêu cầu tính lãi theo quy định từ ngày 11/11/2020 cho đến nay.

Tại phiên tòa bị đơn bà Nguyễn Thị Ng trình bày: Bà thừa nhận có nợ tiền hụi chị Th số tiền 467.000.000 đồng nay hoàn cảnh khó khăn xin trả dần mỗi tháng 2.000.000 đồng và xin không tính lãi nữa.

Việc chơi hụi của bà với bà Th là do bà tự chơi không liên quan đến chồng bà nên ông L không biết việc này. Số tiền bà hốt hụi dùng vào mục đích buôn bán để sinh lời lo cuộc sống gia đình.

Toà án đã tiến hành xác minh và niêm yết các văn bản tố tụng đối với ông Nguyễn Chi L, tuy nhiên cho đến nay ông L không đến tòa án để giải quyết nên tòa án không có lời khai của ông L.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu và đề nghị giải quyết vụ kiện như sau: Về tố tụng, việc tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp là đúng thẩm quyền. Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quyền cũng như nghĩa vụ của mình khi tham gia giải quyết vụ kiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Tuy nhiên Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng như vẫn vắng mặt và không có văn bản trình bày ý kiến của mình về nội dung việc kiện, do đó Tòa án đưa ra xét xử là đúng pháp luật và bị đơn được thực hiện quyền của mình khi nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ kiện, việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả khoản nợ vay là có cơ sở, bởi việc này bị đơn cũng thừa nhận nên nguyên đơn khởi kiện là đúng pháp luật. Qua đó đề nghị giải quyết buộc bị đơn, người co quyền lợi nghĩa vụ liên quan phải có nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn theo yêu cầu, đồng thời bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải chịu án phí theo giá ngạch, hoàn trả án phí tạm nộp cho nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ kiện Tòa án đã tiến hành xác minh, niêm yết thủ tục tố tụng đối với ông Nguyễn Chi L như hai lần thông báo tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, hai lần xét xử nhưng ông L không đến Tòa án để giải quyết. Tại phiên tòa ông Nguyễn Chi L vắng mặt Tòa án tiến hành xét xử theo quy định tại Khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS).

[2] Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật: Thẩm quyền giải quyết được quy định tại Khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Kiên Lương. Đây là vụ kiện tranh chấp nợ phát sinh từ hợp đồng dân sự về hụi (họ) nên khi có tranh chấp thì áp dụng Bộ luật dân sự giải quyết.

[3] về nội dung vụ kiện: bà Nguyễn Thị Ng có tham gia chơi nhiều dây hụi do bà Nguyễn Thị Th làm chủ hụi, các dây hụi hiện đã mãn. Phía bà Th đã thực hiện đúng nghĩa vụ, giao tiền hụi đầy đủ cho bà Ng nhưng sau khi lĩnh hụi bà Ng không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình là đóng hụi lại cho chủ hụi, còn nợ tiền hụi là 467.000.000 đồng.

Tại phiên tòa hôm nay phía bà Th thống nhất số tiền nợ hụi là 467.000.000 đồng phía bà Th không yêu cầu tính lãi suất đối với số tiền nợ hụi và yêu cầu bà Ng ông Liêm phải trả một lần hết số tiền nợ hụi.

Xét yêu cầu của bà Nguyễn Thị Th là có cơ sở chấp nhận, bởi bà Th khởi kiện có cung cấp chứng cứ chứng minh là các tờ giấy có ghi số tiền nợ, việc này bà Ng cũng thừa nhận còn nợ bà Th tổng số tiền 467.000.000 đồng nên bà Ng có nghĩa vụ phải trả tiền cho bà Th, từ đó xác định việc giao dịch hụi giữa bà Th và bà Ng là có thật, do bà Ng vi phạm nghĩa vụ sau khi nhận tiền hụi không thực hiện đóng hụi chết cho bà Th nên bà Th khởi kiện yêu cầu bà Ng trả tiền là có căn cứ phù hợp với quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự.

[4] Việc bà Ng xin trả chậm 2.000.000đ/tháng, trong khi bà Th không chấp nhận, việc này là thuộc thẩm quyền xem xét của Cơ quan thi hành án sau khi án có hiệu lực pháp luật, nên không xét.

Việc bà Ng bà trình bày việc bà tham gia chơi hụi, ông L không biết. Tuy nhiên, qua xác minh bà và ông L có quan hệ là vợ chồng vẫn sống chung trong một gia đình đồng thời tại phiên tòa bà xác nhận sau khi hốt hụi bà dùng tiền vào mục đích làm ăn buôn bán để sinh lời và chăm lo cho cuộc sống của gia đình bà, nên việc giải quyết vụ kiện sẽ liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của ông L do vậy xác định ông L là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là đúng với quy định tại khoản 4 Điều 68 và Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa bà Ng thừa nhận nợ và đồng ý trả nợ theo yêu cầu của bà Th số tiền 467.000.000 đồng, theo đó buộc bà Ng và ông L trả cho bà Th số tiền 467.000.000 đồng.

2/ Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ng và ông Nguyễn Chi L bị buộc trả số tiền 467.000.000đ nên phải chịu án phí theo quy định. Bà Nguyễn Thị Thuỷ được nhận lại án phí tạm nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35; Khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng: Điều 471; Điều 468 Bộ luật Dân sự; Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về hụi, họ, biêu, phường.

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Th Xử buộc bà Nguyễn Thị Ng và ông Nguyễn Chi L có nghĩa vụ trả số tiền 467.000.000đ cho bà Nguyễn Thị Th.

Kể từ ngày nguyên đơn có yêu cầu thi hành án nếu người phải thi hành án chậm trả số tiền nêu trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án số tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2/ Về án phí: Áp dụng Điều 144; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ Ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bà Nguyễn Thị Ng và ông Nguyễn Chi L phải nộp án phí DSST là 23.350.000đ. Bà Nguyễn Thị Thuỷ nhận lại số tiền tạm ứng án phí là 11.580.000đ theo lai thu số 0000137 ngày 10/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiên Lương.

3/ Báo cho các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn luật định 15 ngày kể từ ngày tuyên án (31/5/2022). Ông L vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 kể từ ngày nhận được bán án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng hụi số 62/2022/DS-ST

Số hiệu:62/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiên Lương - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về